Đối với mỗi tác giả, dù ở hình thức văn chương nào, “viết” là hành động cốt lõi nhất, căn bản nhất, mang tính biểu đạt tinh thần cao nhất, nói như Lưu Hiệp trong “Văn tâm điêu long”: “cái tình của thánh nhân có thể thấy trong văn từ”(1). Trong suốt dòng lịch sử của “viết”, những hình thức văn bản cùng với các đặc trưng nội tại được sáng tạo và định hình, tạo nên thế giới của nền văn minh “Viết” mà ta đang được thụ hưởng thành quả ngày nay. Có những hình thức “viết” dễ dàng được quy chuẩn thành các mô thức để truyền dạy, nhưng có những hình thức vô định hình, biến đổi liên tục, khiến chúng trở nên khó truyền dạy. Các hình thức viết càng thuận tiện để truyền dạy như văn bản hành chính, thông báo, thậm chí là nghị luận đơn giản… càng được giản lược hóa trở nên có thể định hình bởi công thức, và với quyền năng của công nghệ, thành các thuật toán.
Từ người viết đến AI viết
Trước khi được lưu trữ bằng văn bản, những tinh túy tinh thần thường được diễn xướng hoặc truyền khẩu. Không chỉ các kinh điển phương Đông như “Bhagavad Gita”, Kinh Phật hay “Đạo Đức Kinh” được lưu truyền bằng hình thức truyền khẩu, mà ngay cả các luận thuyết triết học và các trường thi thời Hy Lạp cổ đại đều được diễn thuyết hoặc diễn xướng. Khoảng những năm 500 TCN, xã hội Hy Lạp cổ đại đã có chữ viết, nhưng “viết” chủ yếu được giới hạn trong các văn bản hành chính, giao dịch và pháp luật. Một trong các lý do có thể đến từ việc sản xuất giấy papyrus đắt đỏ, nhưng ngoài ra, có lý do đến từ tập tính biểu đạt. Điều này có thể tương đồng với xã hội Trung Quốc cổ đại ở khoảng thời gian tương ứng.
Đối với các nhà tư tưởng hoặc các thi sĩ cổ đại, sáng tạo là quá trình liên tục, kết quả của quá trình quan sát, mô phỏng, sắp xếp trong tâm trí… và sự biểu đạt mang tính hiệu ứng để hướng tới người xem. Triết lý sáng tạo của thế giới Hy Lạp cổ đại được Aristotle bàn đến trong “Thi ca luận”, ông cho rằng một cách tự nhiên, con người có khả năng “mô phỏng” và “hòa thanh”. Trong đó, “mô phỏng” không đơn thuần là quá trình sao chép, mà là sự tái tạo, và kết hợp với tính “hòa thanh” trong quá trình biểu đạt để tạo ra hiệu ứng nhịp nhàng trong ngôn từ. (2) Lý thuyết về mô phỏng trong nghệ thuật của Aristotle đã ảnh hưởng lớn tới nền nghệ thuật phương Tây trong suốt thời kỳ cổ đại, trung cổ và chủ nghĩa cổ điển. Tuy nhiên, khái niệm “mô phỏng” này đã bị hiểu sai theo một chiều. Các nhà sáng tạo coi “mô phỏng” chỉ đơn thuần là “mô phỏng” thực tại, nhưng ngay trong “Thi Ca Luận”, ông đã khẳng định: “Thi sĩ là người mô phỏng, cũng như họa sĩ hay bất cứ nghệ sĩ ở lĩnh vực khác, nhất định phải mô phỏng một trong ba đối tượng — thứ như chúng đã từng hoặc đang là, thứ như chúng được nói hoặc tưởng tượng là, hoặc thứ như chúng có thể là.” (3) Điều đó có nghĩa là sự mô phỏng vừa là tái tạo hiện thực, lại vừa là tái tạo những gì diễn ra trong tâm trí (vốn không thuộc hiện thực). Hội họa là lĩnh vực nghệ thuật đầu tiên khiến cho các nhà phê bình nghi ngờ lý thuyết về mô phỏng trong sáng tạo. Sự ra đời của máy ảnh vào đầu thế kỷ 19 có thể sao chép và tạo ra những bức hình giống thật đã khiến các họa sĩ từ bỏ dần lối vẽ “chép lại hiện thực”. Cũng trong thế kỷ 19 này, nghệ thuật phương Tây chuyển mình cố thoát ra khỏi sự mô phỏng hiện thực. Mọi lĩnh vực nghệ thuật đi vào lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, ý niệm… như một sự giải phóng khỏi hiện thực. Tuy nhiên, xét về căn bản, quá trình này vẫn là chiều hướng còn lại của mô phỏng, tức biểu đạt thứ diễn ra trong tâm trí.
Toàn bộ quá trình sáng tạo nghệ thuật này trong suốt dòng lịch sử, dù phương Đông hay phương Tây, đều là hình thức viết khó được truyền dạy. Bởi vì, người ta có thể dạy nhau nhận biết mặt chữ, hoặc tuân thủ các điển phạm và quy tắc thường thấy trong văn bản hành chính hay pháp luật, nhưng rất khó để dạy nhau quá trình mô phỏng. Tâm trí của mỗi cá nhân có quá trình quan sát, sao chép, tái tạo, tự sắp xếp và biểu đạt khác nhau, từ đó mà diễn tiến mô phỏng cũng khác nhau.
Để thuận tiện cho quá trình truyền dạy và trải nghiệm đọc, những quy tắc viết được đặt ra và được bồi đắp lần lượt trong suốt dòng lịch sử, đặc biệt là trong văn xuôi nghị luận và học thuật. Quy tắc cơ bản nhất và mang tính hình thức có thể kể đến là ngữ pháp và cấu trúc văn bản. Ở tầng sâu hơn là phương pháp lập luận và biện luận được đặt nền móng bởi chính Aristotle. Từ tính chất dễ truyền dạy, những hình thức viết này được đưa vào báo chí và học thuật, ngự trị ở tất cả các cơ quan hành chính, cơ quan ngôn luận và trường đại học. Thậm chí, địa vị xã hội của hình thức viết này có phần được trọng vọng hơn so với lối viết nghệ thuật vốn rất khó gò ép vào khuôn định. Tình trạng diễn ra tương tự với lối văn khoa cử ở các quốc gia Nho giáo, khi người viết bị trói buộc trong quy cách điển phạm. Trước khi AI xuất hiện, con người đã có nhiều thế kỷ học theo lối viết này để dễ dàng đạt được thành tựu trong sự nghiệp. Sự phá cách trong văn xuôi nghị luận chỉ đến từ những cây viết không bị trói buộc bởi bằng cấp hay công danh, sự nghiệp; hoặc đến từ sự tháo bỏ bớt các định chế trong môi trường học thuật. Điều đó có nghĩa là nhiều thế kỷ, con người đã viết nghị luận rất gần với cách AI được thiết lập ngày nay.
Ngôn ngữ nghị luận, hành chính, pháp luật, báo chí là những dạng thức văn bản dễ dàng bị “thuật toán hóa” bởi chúng đã bị định hình trong nhiều thế kỷ. Những nhà phát triển AI cũng sử dụng kho văn bản đầu vào khổng lồ và chuẩn mực này để học theo các công thức viết từ câu đơn giản đến phức tạp, từ phong cách trang trọng đến thân mật. Thuật toán của AI có thể tìm ra các quy luật về ngữ nghĩa của từ trong ngữ cảnh và sử dụng gần đúng đối với các từ phổ biến. Thậm chí, nó có thể diễn giải theo logic và dữ liệu đầu vào để triển khai ý từ câu lệnh của chúng ta theo đúng các nguyên tắc lập luận. Một câu lệnh với cụm từ mô tả chính xác phong cách từ người sử dụng AI có thể giúp AI tạo ra đoạn văn bản có văn phong gần như mong muốn. Sự xuất hiện của AI đối với người viết có phần giống như sự xuất hiện của máy ảnh đối với hội họa. Sự thay thế và chuyển đổi chắc chắn sẽ diễn ra.
Nhưng ở các văn bản nghệ thuật, các thuật toán của AI luôn gặp khó dù đã được nạp dữ liệu bằng kho tác phẩm văn học khổng lồ của nhân loại. AI có thể dễ dàng học được các thủ pháp đã được quy tắc hóa như gieo vần, nhịp điệu, biện pháp nghệ thuật căn bản, sử dụng các từ ngữ bay bướm… nhưng không thể biểu đạt được cảm xúc. Những nghiên cứu não bộ về cảm xúc con người của Lisa Feldman Barrett đã chỉ ra rằng cảm xúc không mang tính phổ quát, mà có dạng thức muôn hình vạn trạng, và việc trừu tượng hóa cảm xúc trong một từ hoặc cụm từ vốn dĩ không hề biểu đạt đúng trạng thái cảm xúc. Hơn nữa, sự biểu đạt cảm xúc cũng rất đa dạng, phụ thuộc vào bối cảnh văn hóa và lựa chọn của các cá nhân. (4) Không công thức nào và không thuật toán nào có thể giúp AI giải mã được sắc thái cảm xúc trong các tác phẩm nghệ thuật ẩn sau con chữ cũng như không thể nào tạo ra được một tác phẩm nghệ thuật đúng nghĩa, nói theo “Văn Tâm Điêu Long” là biểu đạt “cái tình của thánh nhân”.
Sáng tạo có nằm trong hành động “Viết”?
Khi Aristotle sáng tạo luận thuyết triết học của mình, Homer sáng tạo “Odyssey”, những tác giả vô danh sáng tạo các bài trong “Kinh Thi”… họ không “viết”. “Văn tâm điêu long” đúc rút quá trình từ sáng tạo đến viết thật chí lý: “Tâm sinh thì ngôn lập, ngôn lập thì văn sáng” (5). Câu này có thể hiểu rằng khi tâm trí nảy sinh suy nghĩ và cảm xúc, thì lời được hình thành, và khi lời hình thành thì hành động viết diễn ra. Do nhiều thế kỷ, các tác giả đã được huấn luyện trong nền văn minh viết, tách bản thân khỏi môi trường diễn xướng và truyền khẩu, nên quá trình sáng tạo được đồng nhất với quá trình viết. Sáng tạo thật sự nằm trong quá trình “tâm sinh” và “ngôn lập”. “Tâm sinh” và “ngôn lập” có thể nói, tương ứng với quá trình mô phỏng thực tại và mô phỏng tâm trí mà Aristotle đề cập đến, và trong thế giới tâm trí ấy ẩn chứa mọi hiện tượng như tưởng tượng, biện chứng, ảo giác, ám ảnh, giấc mơ… Viết thuần túy là sự đặt bút, nó có thể diễn ra đồng thời cùng lúc với “tâm sinh”, hoặc diễn ra sau đó, thường đồng thời với “ngôn lập”.
AI không có quá trình “tâm sinh”, bởi AI được tạo ra từ một tập hợp dữ liệu siêu khổng lồ. Trong khi con người tiếp nhận dữ liệu thông qua các giác quan một cách phi ngôn ngữ và được não bộ xử lý theo các dạng thức ngôn ngữ khác nhau, thì AI chỉ tiếp nhận những dữ liệu đã được ngôn ngữ hóa. Giới hạn của ngôn ngữ hóa chính là sự trừu tượng không thể biểu đạt được độ phức tạp của cảm giác và tình cảm. Khi con người biểu đạt những cảm giác và tình cảm phức tạp ấy bằng lời nói hay lời viết (hoặc những dạng thức khác), chúng được ký hiệu hóa một cách cá biệt. Bởi thế các cá nhân khi “tâm sinh” tức cảm giác và tình cảm được khuấy động tới mức biểu đạt ra một cách tự nhiên đều thực hiện hành động sáng tạo. Và khi quá trình sáng tạo không diễn ra, thì quá trình viết của một người rất gần với thao tác viết của AI chứ không phải sự sáng tác. Đây chính là điều mà Charles Bukowski đã phát biểu trong bài thơ “bạn muốn là nhà văn ư?” (6):
“nếu chẳng từ bạn bung ra
dẫu điều gì chăng nữa
đừng viết.
nếu chẳng vô cớ vuột ra
từ trái tim, trí não, môi miệng
và gan ruột,
đừng viết.
nếu phải ngồi hàng giờ
dán mắt vào màn hình máy tính
hay còng lưng
gõ chữ
lùng sục từng từ
đừng viết.”
Cuối bài thơ, ông còn khẳng định rằng sự viết sẽ diễn ra tự nhiên khi đúng thời điểm, mà thời điểm ở đây chính là những nung nấu tình cảm và suy nghĩ ngập tràn bên trong nội tại của nhà văn, tới mức phải bùng nổ bằng ngôn từ.
Ngay cả đối với văn bản nghị luận, AI cũng chưa thể thay thế hoàn toàn được người viết. Suy cho cùng, văn bản nghị luận không đơn thuần là một văn bản mô phạm như pháp luật hay hành chính. Nghị luận cũng đòi hỏi tình cảm và suy nghĩ, trong đó tình cảm càng mạnh mẽ, suy nghĩ càng ngồn ngộn, tức tâm tư sâu rộng thì văn bản càng thuyết phục. Sự sáng tạo trong văn bản nghị luận chính là quá trình tác giả quan sát, phân tích hiện thực, phỏng đoán, kiểm chứng… để đúc rút ra những kiến giải mới, và chính các kiến giải ấy đã thôi thúc sự viết. Toàn bộ quá trình này, AI không thể thay thế người viết. Ngược lại, khi sự nghị luận bị điều hướng theo một động cơ nào đó khác, như công kích hay ca tụng.., sự khác biệt giữa người viết và AI không nhiều. Lúc đó, AI có thể thay thế người viết để triển khai các ý đồ mà người viết muốn. Quá trình sáng tạo lúc này không hề diễn ra mà chỉ có quá trình ra lệnh, diễn giải và tinh chỉnh. “Viết” trở thành hành động đồng thời liên tục giữa AI và người ra lệnh. Đương nhiên, một bài viết được viết theo lối này vẫn có thể chặt chẽ, hấp dẫn, nhưng sẽ không có tâm tư được biểu đạt trong đó.
Đọc như độc giả hay đọc như AI?
Sau chót, yếu tố quyết định đến thói quen viết hay sáng tạo của người viết nằm ở độc giả. Độc giả tiếp thu các nội dung viết từ sách, báo, tạp chí hay các trang mạng. Quá trình tiếp thu này cũng có sự phân hóa trong cộng đồng độc giả, do sự khác biệt về nền tảng văn hóa mà mỗi người ở trong đó thụ hưởng. Khi độc giả đọc văn bản, độc giả có nhiều cấp độ đọc sâu: từ đọc chữ và các ngữ nghĩa được định nghĩa theo từ điển, đến đọc cùng lúc với quá trình tự biện, đọc và kiểm chứng trong thực tiễn… Ở cấp độ từ đọc chữ và các ngữ nghĩa được định nghĩa theo từ điển, sự đọc của con người tương đồng với quá trình nạp dữ liệu của AI. Tuy nhiên, ở cấp độ tự biện và cấp độ kiểm chứng, AI chưa thể bắt chước quá trình đọc này.
Trên thực tế, trong nhiều thập kỷ giảng dạy môn văn trong nhà trường tại Việt Nam chỉ khuyến khích học thuộc lòng và viết theo văn mẫu, quá trình nạp dữ liệu văn bản của học sinh còn không được bài bản và trình tự như AI. Khi đại đa số độc giả có khả năng đọc kém hơn AI thì tất yếu sẽ viết kém hơn AI và không thể thẩm định được độ đúng sai, nông sâu ở các văn bản mà AI hay những người viết theo công thức giống với AI đã viết. Họ bị chi phối bởi những câu văn hoặc câu thơ chạm vào nỗi ám ảnh mà họ đang quan tâm hoặc theo các xu hướng đám đông đang được thúc đẩy. Họ cũng khó có thể tự phân biệt được đâu là văn bản AI viết và đâu là văn bản được sáng tạo. Thậm chí sự sáng tạo có thể gây cho họ cảm giác khó chịu bởi xa lạ với thói quen đọc của họ. Người đọc kém cũng có thể dễ dàng chấp nhận với các văn bản truyện do AI viết theo mệnh lệnh của người sử dụng, bởi các văn bản này sử dụng lối viết thân thuộc với họ, theo những trình tự diễn đạt mà họ có thể đọc hiểu được.
Một người đọc ở cấp độ tương đồng với AI hoặc kém hơn AI thì không thể có năng lực viết tốt hơn AI. Nếu người ấy quyết định trở thành người viết, họ buộc phải gắn bó với AI và sử dụng AI như một trợ lý ảo đắc dụng thay họ triển khai ý và diễn đạt thành lời theo những mục tiêu mà họ muốn. Nói một cách khác, họ không thực sự viết, và cũng không sáng tạo. Tự bản thân tâm trí họ vốn đã là một thành phẩm do AI huấn luyện và đến lượt nó lặp lại vòng ra mệnh lệnh để huấn luyện AI, tựa như con rắn tự nuốt chính mình trong biển thông tin mênh mộng. Những văn bản được viết ra lúc này, chắc chắn không thể thuyết phục được các độc giả đọc sâu, đồng thời cũng nhanh chóng bị thay thế bởi các tác phẩm tương đương. AI chỉ có thể giúp thỏa mãn đam mê trở thành người viết của một cá nhân nhưng không thể biến cá nhân thành một tác giả.
Cơn sốt AI viết và huênh hoang về khả năng sáng tạo của AI rồi cũng sẽ qua đi, giống như thị trường ở thời đại công nghiệp, khi những mặt hàng giá rẻ dễ sản xuất sớm muộn cũng bị thay thế bởi mặt hàng giá rẻ hơn. So với đọc những văn bản na ná nhau, những người đọc kém, thường do ít đọc, cũng sẽ dễ dàng chọn lựa các hình thức thu nạp thông tin cho mình một cách hấp dẫn hơn và ngắn gọn hơn, thậm chí còn rẻ tới mức miễn phí, cụ thể là qua video hoặc podcast. Khi cơn sốt qua đi, AI trở về đúng với chức năng thế mạnh của mình: thay thế con người soạn thảo những văn bản cứng nhắc và mô phạm như hợp đồng, quy định, thông cáo, báo cáo… để con người tiết kiệm công sức và dành nhiều tâm sức hơn cho sự suy ngẫm và sáng tạo chân chính.
Hà Thủy Nguyên
Bản rút gọn của bài viết này đã được đăng trên Báo Văn Nghệ số 3 – 2025
Chú thích
(1) Trang 50, “Trưng Thánh” trong “Văn Tâm Điêu Long” của Lưu Hiệp, bản dịch Trần Thanh Đạm & Phạm Thị Hảo, Book Hunter & NXB Văn Học, 2024.
(2) Trang 4, “Thi Ca Luận” của Aristotle, Hà Thủy Nguyên dịch, Book Hunter & NXB Đà Nẵng, 2024.
(3) Trang 157, “Thi Ca Luận” của Aristotle, Hà Thủy Nguyên dịch, Book Hunter & NXB Đà Nẵng, 2024.
(5) Trang 47, “Nguyên Đạo” trong “Văn Tâm Điêu Long” của Lưu Hiệp, bản dịch Trần Thanh Đạm & Phạm Thị Hảo, Boook Hunter & NXB Văn Học, 2024.
(6) Bài thơ “bạn muốn là nhà văn ư” của Charles Bukowski do Hà Thủy Nguyên dịch, đăng tải trên website cá nhân: bạn muốn là nhà văn ư? – Charles Bukowski – Hà Thuỷ Nguyên
