Home Bình Luận Độc tôn một bộ sách giáo khoa duy nhất: Thuận tiện không đồng nghĩa với tiến bộ

Độc tôn một bộ sách giáo khoa duy nhất: Thuận tiện không đồng nghĩa với tiến bộ

Editor

Just Now

Dù không đồng ý với Bộ Giáo Dục ở nhiều điểm, nhưng chính sách sử dụng nhiều bộ sách giáo khoa là bước tiến đáng kể nhất của Bộ trong những năm gần đây. Đương nhiên, việc này vấp phải nhiều ý kiến phản đối, đa phần đến từ phụ huynh và giáo viên. Không trách họ được, nếu có trách là trách nhiều năm trước đó, Bộ Giáo Dục đã “dạy hư” nhiều thế hệ.

Từ rất lâu, chúng ta đã quen với việc chỉ có 1 bộ sách giáo khoa duy nhất được sử dụng làm “chuẩn”, rồi từ đó chương trình thi được thiết kế theo sách giáo khoa. Giáo viên cứ dạy theo sách, học sinh cứ lải nhải học theo, kiểm tra và thi cử chấm theo barem dựa trên sách, phụ huynh thì cứ theo sách kiểm tra con học thuộc lòng và làm bài tập đúng đáp án là đủ. Hệ lụy xã hội, chẳng cần số liệu đo đạc cũng thấy: những thứ học trong nhà trường không những vô dụng trong quá trình làm việc và sinh hoạt, mà còn vô dụng ngay cả với những người đeo đuổi con đường học thuật. Đương nhiên, nó rất thuận tiện để thi cử, lấy bằng, phổ cập hóa cấp 3, thậm chí là đại học (Nhiều trường đại học vẫn áp đặt giáo trình và tìm cách hạn chế sinh viên đọc mở rộng).

Để phân tích hiện trạng này, đáng ra cần đến một bài viết tối thiểu cỡ 5000 từ, nhưng khả năng cao sẽ ít người đọc, nên thôi, tôi viết một bài ngắn gọn ở đây, thử đưa ra một vài lý giải của cá nhân.

Tại sao chỉ cần một bộ sách giáo khoa?

Trước hết phải nhắc lại, mô hình giáo dục phổ thông như hiện nay mới chỉ nhen nhóm từ thế kỷ 16 và trở nên phổ biến ở phương Tây vào cuối thế kỷ 18, thâm nhập vào thế giới Châu Á vào thế kỷ 20. Mô hình này có ý nghĩa lịch sử của nó, nó giúp tạo cơ hội xóa bỏ bất bình đẳng trong tiếp cận tri thức: người nghèo có thể được đến trường, được học, được biết chữ, được có cơ hội thăng tiến…giống như bất cứ người trung lưu hoặc thượng lưu trong xã hội. Sách giáo khoa trở thành công cụ rất quan trọng, bởi ở thời đó, người nghèo không có cơ hội sở hữu hay tiếp cận thư viện khổng lồ các trước tác kinh điển đắt tiền. Một bộ sách giáo khoa mang tính rút gọn, đúc rút những điều cơ bản mà các nhà giáo dục nghĩ là “cần thiết” đã giúp cho rất nhiều người nghèo có cơ hội tiếp cận kiến thức.

Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng, ở thời đó, việc in ấn khó khăn, giá sách cao, thu nhập người dân thấp, và quan trọng là, có rất ít cơ hội tiếp cận kiến thức. Tình trạng này đến nay, ở Việt Nam, ngay cả các vùng sâu vùng xa, cũng không khó khăn đến thế. Khi ngành in ấn phát triển và thu nhập bình quân của tầng lớp lao động tăng lên, theo đúng quy luật thị trường, sự phân chia bắt đầu diễn ra. Mình sẽ nói kỹ sự phân chia này ở ngay đoạn dưới.

Quay lại vấn đề Việt Nam. Chúng ta duy trì 1 bộ sách giáo khoa không phải vì đói nghèo, mà vì mấy lý do sau:
– Từ phía nhà quản lý giáo dục: Thuận tiện cho tuyên truyền, thuận tiện cho đào tạo giáo viên, và đặc biệt thuận tiện cho thi cử.
– Từ phía phụ huynh: Phụ huynh đại đa số chỉ cần bằng cấp, không quan tâm đến tính thiết thực của kiến thức và liệu rằng kiến thức ấy có phù hợp với con mình hay không. Họ nghĩ rằng mua một bộ sách có thể thay thế cho rất nhiều cuốn sách khác mà đứa con mình đọc để có được sự hiểu biết thực sự. Nói thẳng, phụ huynh đòi học 1 bộ SGK chỉ coi trọng bằng cấp, vì học 1 bộ thì thi dễ đoán đề hơn, cũng dễ dàng mua chuộc thầy này cô kia hơn. Đối với phụ huynh thu nhập thấp thì còn tính theo lối: “một bộ sách truyền đời”, thật là tiết kiệm.

Tại sao cần nhiều bộ sách giáo khoa?

Theo quy luật thị trường và xã hội, sự phân hóa là tất yếu. Không chỉ khác nhau về đẳng cấp, còn là sự khác biệt về tính cách, nền tảng văn hóa, tính bản địa, tính địa phương… Thế giới không hề phẳng và mỗi người dân thì không giống với toàn dân. Một cách tự nhiên, sự khác biệt diễn ra ở mọi nơi, chỉ có mong muốn duy ý chí của một bộ phận thuộc nhóm đa số muốn áp đặt. Áp đặt sử dụng một bộ sách giáo khoa là cách nhanh nhất và rẻ nhất để xóa bỏ sự khác biệt.

Mình có nói chuyện với một số bạn bè dân tộc thiểu số, họ đều nói với mình rằng họ phải học và thi “Truyện Kiều” trong khi không được học sử thi của chính họ, tác phẩm gần gũi và có ý nghĩa với chính họ hơn. Họ cũng than về những tri thức bản địa, thậm chí ngôn ngữ dân tộc mình mai một ngay trong chính cộng đồng của mình. Một số bạn bè gia đình thuộc tôn giáo đặc thù cũng than thở với mình về việc nội dung trong sách giáo khoa, nhất là môn Văn học, không phù hợp với đức tin của họ. Chẳng cần nói đâu xa, một đứa trẻ ở Hà Nội thuộc nhóm gia đình trung lưu sẽ có nhu cầu tiếp nhận kiến thức khác nhiều so với đứa trẻ ở nông thôn.

Không có bộ sách giáo khoa toàn năng hay chương trình học nào đáp ứng được tất cả các khác biệt trong xã hội. Các nước phát triển họ ý thức được điều này từ lâu, do đó, họ cho phép nhiều bộ sách giáo khoa cùng tồn tại, và cho phép giáo viên tự thiết kế chương trình học của mình, thậm chí còn cho phép homeschooling, thậm chí là unschooling và các hình thức giáo dục thay thế khác.

Trọng bằng cấp đang kéo tụt lùi xã hội

Bên cạnh nhiều bộ sách giáo khoa, Bộ giáo dục hiện cho nhiều mô hình học và thi theo cách chương trình quốc tế, cụ thể là IB và Cambridge. Danh mục các môn học trong hai hệ này rất đa dạng, không chỉ gói gọn trong các môn phổ thông, có những môn ở cấp độ học thuật rất cao, có những môn rất thực tiễn: từ kinh doanh, đến tài chính, đến tâm lý học, triết học, thần học,… thậm chí cụ thể thực chiến như thiết kế, truyền thông đa phương tiện…

Ở Việt Nam, sự đa dạng của các môn này bị lược bỏ, mà chỉ chọn những môn “dễ thi” như Toán, Khoa học, ICT (tức công nghệ thông tin)… họa hoằn lắm có trường cho học môn Viễn Cảnh Toàn Cầu. Đây đều là những môn không quá khác biệt với kiểu luyện thi của Việt Nam, chỉ cần chuyển từ luyện thi tiếng Việt sang luyện thi tiếng Anh, thế nên chúng rất được ưa chuộng. Thế nên, thực ra những bạn học theo các hệ này tại nhiều trường ở Việt Nam còn ít tự do lựa chọn hơn và lệch lạc hơn cả học chương trình phổ thông. Một cơ hội để học hỏi và mở rộng hơn đã bị bỏ lỡ.

Bộ giáo dục gần đây đưa ra nhiều đổi mới, ngoài chính sách nhiều bộ sách giáo khoa cùng cạnh tranh, còn yêu cầu giáo viên phải tự soạn chương trình dạy (tức là giáo viên dốt nát, lười đọc, lười học…sẽ ngày không có cơ hội), và thi cử không theo mẫu (tức là học sinh sẽ càng ít cơ hội học vẹt, học tủ). Tất yếu, tỉ lệ rớt sẽ cao lên, nhiều bạn sẽ không còn dễ dàng vào đại học nữa. Rồi đại học cũng sẽ từng bước cải cách để mang tính học thuật hơn, và đại học không phải là chỗ kiếm bằng cấp cho những người chẳng tha thiết gì với con đường học thuật. Người trẻ sẽ hướng tới việc học nghề sớm hơn và hiệu quả hơn, đáp ứng đúng nhu cầu công việc hơn.

Tóm lại, đừng cố làm tụt lùi Việt Nam chỉ vì một chữ “tiện” thêm nữa. Học tập không bao giờ nên nghĩ đến chuyện “tiết kiệm” và “thuận tiện”. Đó là một khoản đầu tư lớn, cho cả một cuộc đời. Nếu tiết kiệm, thì nên tiết kiệm tiền phù phiếm. Bớt đi một dàn loa karaoke, bớt đi tiệc ma chay cưới hỏi vô nghĩa, bớt đi mấy bộ váy áo xúng xính…đừng bớt đi dăm ba chục cuốn sách mà tội.

*Tự do không phải để bừa bãi hay chống đối, tự do là để cho sự khác biệt có cơ hội.

Di sản giáo dục của Krishnamurti

Các bậc thầy tâm linh trong dòng lịch sử của nhân loại mỗi khi nhập thế để rồi rời bỏ thế gian, bên cạnh những lời giảng, thường để lại một di sản mang tính hiện thực hóa ý tưởng của họ. Đó có thể là giáo hội, có thể là tăng đoàn, có thể là một phương pháp tu, hay một trại thiền, một làng tâm linh…nhưng Krishnamurti (1895 – 1986), bậc thầy tâm linh độc lập có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20