Một trong những câu hỏi được đặt ra nhiều nhất khi tôi nói về chuyện con gái của tôi homeschool đó là nàng ta sẽ học cách tương tác xã hội như thế nào. Họ luôn cho rằng tương tác xã hội sẽ chỉ được học ở môi trường nhà trường, nơi đó một đứa trẻ có những người bạn đồng lứa, và được sự chỉ dẫn của những người được đào tạo về nghiệp vụ sư phạm. Tôi không đồng tình với quan điểm này, bởi vì ngay từ triết lý ban đầu của nền giáo dục hiện đại, đặc biệt là ở Việt Nam, thì nhà trường đã không phải là nơi để một đứa trẻ học cách tương tác.
Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn!
Hãy xem, trường học của chúng ta đang học được dựng lên theo mô hình như thế nào? Chúng ta được học theo một khuôn mẫu, mà trong đó những người học giỏi và được cho rằng có tư cách đạo đức tốt là hình mẫu. Trường học là một bản sao được nén lại của xã hội. Bản sao này chứa tất cả các yếu tố làm nên một cộng đồng hạn chế tính cá nhân một cách tối đa. Trong xã hội, con người vận hành theo quy luật kiếm sống và tiêu dùng. Mọi sản phẩm được tạo ra để kiếm sống và lấy nguồn thu từ sản phẩm để mua sản phẩm khác. Sự tương tác giữa con người và con người trong xã hội hiện nay (và có thể là trong mọi hình thái xã hội cổ sơ) đều chỉ là tương tác giữa nhân công với nhân công (kể cả khi bạn ở thượng tầng trong xã hội, về bản chất vẫn là nhân công). Toàn bộ thế giới là một công xưởng, một tập đoàn khổng lồ mà chẳng ai thực sự sở hữu. Chính bản thân nó sở hữu loài người. Trong ấy, trường học giống như một trại huấn luyện.
Con vật bị đưa vào các rạp xiếc, vườn thú, được huấn luyện để đẽo gọt bản tính hoang dã của mình. Chúng được thuần hóa. Cây trồng bị tước bỏ những phẩm tính cây dại của mình để trở thành thức ăn hoặc vật trang trí. Chúng bị bứng khỏi thiên nhiên, trở nên “có văn minh” hơn, nhưng đồng thời cũng mất đi những tinh túy cần có. Chúng trở nên ngớ ngẩn và ngờ nghệch, trở nên giả dối. Nói như nhà thơ Đinh Hùng, đó là một tình trạng “lạc thiên nhiên”. Khi chúng tương tác với nhau như một hệ thống, chúng không tạo thành một hệ sinh thái đa dạng, vừa có thể cộng sinh vừa có thể cạnh tranh sinh tồn, mà trở thành “hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng”, như những con hổ trong vườn bách thú “nằm dài trông ngày tháng dần qua” hay “bọn gấu dở hơi”, “cặp báo chuồng bên vô tư lự” (những hình ảnh trong bài “Nhớ rừng” của Thế Lữ). Nói một cách khác, chúng không tương tác với nhau, chúng cố ngang hàng với nhau để thành hàng lối.
Một trong những ám ảnh tồi tệ nhất của con gái tôi khi ở trường mà luôn khiến tôi bực bội, đó là nàng ta luôn lăn tăn: “Tại sao mình khác những đứa khác thế?”. Không muốn khác người, không muốn đặc biệt, không muốn xuất chúng, và đương nhiên không muốn yếu kém hơn. Khi có một chút vượt trội hơn, hoặc thua kém hơn, nàng ta lại có cảm giác rằng mình đang thiếu hòa đồng. Cần phải được bình thường như bao đứa trẻ khác là một nỗ lực không dễ đối với con gái tôi. Luôn ở giữa hai lựa chọn: hoặc tự tước bỏ bản thân để bình thường, hoặc cứ sống thoải mái với bản thân mình và chấp nhận cô độc. Các cô giáo trong trường cấp 1 có thể hiểu thấu tình trạng của con gái tôi, nhưng các thầy cô cấp 2 thì không. Cấp độ thấu hiểu này ngày càng ít dần đi khi lên các cấp cao hơn, bởi vì họ thực sự chỉ là “người lái đò” làm dịch vụ đưa học sinh qua sông. Những lời này có lẽ hơi tàn nhẫn với các thầy cô giáo, vì ở đâu đó vẫn có những thầy cô rất tốt bụng và yêu nghề, nhưng đó chỉ là số ít, rất ít giữa một xã hội vô cảm và trục lợi. Và dù họ có yêu nghề đến đâu, thì liệu họ có ý thức được rằng họ đang là nhân công góp phần đào tạo ra các nhân công để phục vụ một xã hội đang tước bỏ các phẩm tính tinh thần của con người?
Một đứa trẻ tương tác với nhà trường, gia đình và xã hội theo một cách không tự nhiên. Nó không thực sự tương tác. Vì nó đâu được là chính nó. Tương tác không tồn tại giữa những chiếc mặt nạ với mặt nạ, những lập trình với những lập trình. Tất cả đều được lập trình theo cách giống nhau, và chỉ hệ thống tự vận hành theo cách của mình mà mỗi con người bị đưa đẩy theo lối đó. Rồi người ta gọi đó là số phận, là định mệnh, là quy luật xã hội… Và ngay cả những người lớn, cũng chẳng ai tương tác với ai cả. Họ có thể nói chuyện, nhưng không tương tác, bởi các nội dung không đến từ chiều sâu tinh thần mà đến từ những ham muốn, kỳ vọng ở bên ngoài, hoặc tệ hơn, sự hời hợt của nghĩa vụ quan hệ giữa người và người. Những lời chào vô nghĩa, những đon đả không thật lòng, những nghi lễ chỉ mang tính hình thức, những đua tranh thành tích chẳng để làm gì ngoài tô điểm cho cái mặt nạ… tất cả tạo ra một bầu không khí đạo đức giả từ nhà trường, đến gia đình và ngoài xã hội.
Phản ứng lại sự đạo đức giả này, nhiều đứa trẻ có xu hướng chửi bậy, cố tỏ ra “cool ngầu”, đôi khi chuyển sang phong cách “dark”. Con gái tôi đã ở trong tình trạng này và vẫn chưa thoát khỏi. Giống như nhiều đứa trẻ đồng trang lứa, nàng ta nghĩ rằng tất cả những điều ấy là sống thật. Chưa đến lúc nàng ta nhận ra rằng đó chỉ là một thái cực kia của sự giả dối, và thái cực kia không phải là sống thật, mà là một tình trạng giả dối khác. Tuy nhiên, thái cực này là cần thiết để tiếp tục tiến sang nhiều thái cực khác cho đến khi trở về cốt lõi của tinh thần.
Tôi không học được điều này từ các nhà tâm lý học, tôi học điều này từ bản thân tôi. Từ bé tôi luôn là một đứa con ngoan trò giỏi, tuân thủ tuyệt đối mọi quy định tới mức mà tự biến mình thành công cụ để thắt chặt những người bạn của mình vào các quy định ấy. Nhưng khi lên lớp 7, tôi mệt mỏi. Sự mệt mỏi hình thành từ bất mãn của tôi với cô giáo dậy văn của tôi lúc ấy. Cô ấy đã trù dập tôi suốt một năm trời chỉ vì tôi lỡ chỉ ra một kiến thức sai của cô. Cả một năm, tôi chỉ được 7 điểm văn, không hơn. Qúa nhiều điểm 7 đến nỗi tôi cứ ngỡ rằng tôi kém cỏi văn chương. Và cả năm ấy tôi chửi bậy. Cùng với bạn bè mình, tôi cười sằng sặc trước các truyện dạng “sex joke”, mặc toàn đồ đen “cool ngầu”, và chả ngần ngại đọc những thứ như “Cô giáo Thảo” hay “Chú Kim”, những truyện sex đồi bại nổi tiếng. Đó là một năm nổi loạn. Cho đến cuối năm, bài thi môn văn của tôi không được chấm bởi cô giáo dạy văn ấy, mà bởi một cô khác, tôi mới nhận ra rằng chẳng có gì để tự nghi ngờ mình và giận dữ mình. Bài thi ấy, đã rọc phách, và được 9 điểm, được xác nhận bởi cô giáo dạy văn giỏi nhất và có uy tín nhất trường, một cô giáo không thể bị mua chuộc và kỹ lưỡng trong từng câu từng chữ. Từ đó, tôi đã thoát ra khỏi thái cực kia. Lúc ấy, nhìn lại quãng thời gian lớp 7, tôi vẫn nhớ mình có cảm giác như đi ra khỏi địa ngục – trải nghiệm mà sau này tôi đã tự mã hóa vào tiểu thuyết “Điệu nhạc trần gian” tôi viết vào năm lớp 8.
Hồi đó, những mối quan hệ bạn bè dạng “cool ngầu” rất vui, rất ồn ào, nói theo ngôn ngữ bây giờ là “rất quẩy”. Nhưng trong mối quan hệ ấy không có sâu lắng. Chơi bời với nhau nhưng chẳng thể chia sẻ với nhau. Tôi cảm thấy những người bạn chẳng thể chạy theo kịp suy nghĩ của mình. Tôi vẫn thích thú cảm giác trèo lên thành bể trên nóc tầng thượng, nằm dài và nhìn trời mây trôi qua, hơn là tươi cười với họ. Ngày ấy Hà Nội không quá ô nhiễm, trời còn trong xanh và mát mẻ. Cây cối trên tầng thượng lúc nào cũng lên mơn mởn. Tôi dẫn người bạn thân nhất của mình lên tầng thượng. Cả hai nói rất nhiều, rất nhiều, nhưng nhạt nhẽo. Có thể cô bạn tôi không thấy nhạt nhẽo, nhưng tôi cảm nhận thấy sự chán nản trong tôi. Từ đó, tôi cũng không đưa cô bạn lên tầng thượng thêm lần nào nữa.
Những câu chuyện mà chúng tôi nói, không là công việc ở lớp, thì cũng là chuyện nói xấu người này người kia, hoặc mua các đồ “xịn xò”, hoặc theo dõi tình hình của các anh thần tượng. Đôi lúc, sâu sắc hơn một chút, là nghe nhau kể những cảm xúc thoáng qua của tình yêu thuở mới lớn hay những giận hờn bố mẹ. Chúng tôi giải trí và giết thời gian của nhau nhiều hơn tương tác với nhau. Về sau, những người bạn thân khác của tôi cũng vậy. Mẹ tôi luôn chê tôi vì tôi không biết trân trọng tình bạn. Có lẽ lời mẹ tôi chê là đúng! Bởi vị tôi khó có cảm giác tình bạn tồn tại khi tôi không nhìn thấy họ thực sự là chính họ. Với họ, tôi luôn có một sự e dè nhất định, một cảm giác bất an, không do sự nghi ngờ, mà là do sự thiếu đồng điệu về tinh thần. Tôi cảm thấy rằng họ đang cố đồng hóa tôi vào mẫu hình đời sống của họ với những lời khuyên về việc phải thế nọ, phải thế kia – một điều tối kị của tôi, từ bé cho đến bây giờ.
Sáu năm ở trường tương tác theo lối ấy là quá đủ với con gái tôi, và tôi khó có thể tưởng tượng nàng ta sẽ trải qua ngần ấy năm như tôi, bởi vì sự cố chấp của nàng ta cao hơn tôi, nhưng cũng vì thế mà càng bị ám ảnh tâm lý nhiều hơn tôi. Với tôi, mọi sự rất dễ dàng. Dễ dàng để tuân thủ, dễ dàng để ồn ào, dễ dàng để xu thời, dễ dàng để nổi loạn, và cũng dễ dàng để vứt bỏ những thứ ấy chỉ trong một suy nghĩ. Tôi thuộc loại người chỉ cần một chiếc lá rơi có thể làm tôi quên phắt mọi thứ, nhưng con gái tôi lại là người khư khư với những ký ức. Và càng khư khư với chúng thì lại càng khó chịu đựng nhà trường, khó chịu đựng những tổn thương. Nhưng cũng chính sự khư khư ấy khiến con gái tôi nhớ được những trải nghiệm tự do và vui vẻ mà gia đình tôi tạo ra, để nàng ấy khó chấp nhận được môi trường giam hãm tinh thần và cả thể xác của nhà trường.
Vậy thì bây giờ, con gái tôi sẽ phải học tương tác như thế nào? Đầu tiên là tương tác với chính mình. Có nghĩa là nàng ta phải trải qua những đấu tranh trong tâm trí, sự cãi nhau và dàn hòa giữa các luồng suy nghĩ, sự xung đột và tương thích giữa các thang bậc cảm xúc, và đối mặt với nỗi sợ hãi của chính mình. Nếu không thể tương tác với bản thân mình thì làm sao tương tác và thấu hiểu người khác được? Sự tương tác hờ hững như những kẻ lướt qua đời nhau nào có để làm gì? Và muốn học cách tương tác với bản thân mình thì đầu tiên phải hạn chế tương tác với bên ngoài nhiều nhất có thể. Khi học cách tương tác với bản thân mình rồi, một lúc nào đó, nàng ấy sẽ bước ra ngoài để biểu hiện mình và giải mã các biểu hiện của người khác, nhưng không phải bây giờ.
Nói thì nói vậy nhưng không dễ. Chuyển từ trạng thái ham vui của một đứa trẻ mới lớn sang một trạng thái tĩnh lặng cần thiết luôn khó khăn. Con gái tôi vẫn cần bạn bè, không phải vì thực sự cần, mà vẫn ôm khư khư ý niệm rằng bản thân mình cần bạn và buộc phải có bạn. Khó để gỡ bỏ ý niệm ấy. Vậy thì có một cách đó là đa dạng hóa những loại bạn của con gái tôi. Vợ chồng tôi cho phép con gái lên mạng, chat với những đứa trẻ đồng trang lứa trên facebook. Nàng quen thêm bạn ở đủ cả ba miền Bắc – Trung – Nam, bạn ở Mỹ và ở Nhật. Đằng nào cũng chỉ là tán nhảm, thì tán nhảm ở trường hay ở facebook thì cũng đều độc hại như nhau. Tán nhảm online cho phép nàng thả cửa với những suy nghĩ điên rồ mà không cần phải che dấu. Và khác với những đứa trẻ khác luôn che giấu bố mẹ các đoạn hội thoại trên mạng, nàng thường chụp màn hình các đoạn hay cho vợ chồng tôi đọc. Đôi khi chồng tôi còn chat với bạn của con gái tôi để giúp giải quyết các mâu thuẫn giữa lũ trẻ và phân tích đúng sai cho chúng cũng như cho con gái tôi. Những tranh cãi được lưu ở dạng văn bản luôn rất thuận tiện để làm bằng cớ cho sự phân xử và khiến các bên tâm phục khẩu phục. Các phụ huynh thường sợ con cái mình trò chuyện trên Internet bởi vì họ sợ, họ không tương thích được với thế giới này, và khi sợ thì họ cấm. Sự cấm đoán chỉ càng khiến họ đánh mất dần quyền kiểm soát của mình với con cái. Cha mẹ và con cái cùng tự do theo cách của mình, kỳ lạ thay đó là lúc mọi chuyện được kiểm soát tốt nhất, bởi vì đó là cách người với người đang thực sự tương tác.
Hà Thủy Nguyên