Home Bình Luận Khi chữ nghĩa bị coi rẻ

Khi chữ nghĩa bị coi rẻ

Editor

Just Now

Ở nước ta, không biết từ bao giờ người ta đã coi rẻ chữ nghĩa. Chắc phải lâu rồi, cụ Tản Đà đã than “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” từ đầu thế kỷ 20, cụ Nguyễn Vỹ còn bồi thêm: “Nhà văn An Nam khổ như chó”. Thực ra không chỉ nhà văn, tất cả những gì liên quan đến chữ nghĩa đều bị coi thường.

Người ta có thể trọng vọng bằng cấp, địa vị nhưng người ta lại coi thường chữ nghĩa, thế mới nảy sinh ra những người có bằng cấp, địa vị nhưng lại dốt nát chữ nghĩa. Hơn nữa, định chế bằng cấp đã chuyển dịch từ Văn sang Toán (Lý Hóa cũng được tiếp cận theo mô hình toán), rồi bây giờ là sang ngoại ngữ (cụ thể là tiếng Anh). Thế là một nghịch lý nữa lại nảy sinh, chúng ta có những người tư duy bằng số và ra quyết định bằng số, nhưng lại không thể lập luận. Chúng ta có những đứa trẻ tự tin nói tiếng Anh nhưng nói tiếng Việt theo kiểu “gà mắc tóc”. Nhưng không sao cả, miễn là có bằng cấp cao, có địa vị tốt, có thể vênh vang khoe mẽ…thì chữ nghĩa nào có quan trọng gì.

Căn bản thì dân chữ nghĩa An Nam khổ hơn chó. Chữ nghĩa ở đây bao gồm cả sáng tác văn chương, nghiên cứu, tri thức… Gọi chung là dân chữ nghĩa cho dễ hình dung. Nỗi khổ này đến từ một thực tế lịch sử, rằng Việt Nam mới thoát nạn mù chữ từ sau Đổi Mới thôi. Xa xưa dùng chữ Hán và chữ Nôm, đại đa số người dân không có điều kiện học được loại chữ phức tạp như vậy. Sau này, khi chữ Quốc ngữ được phổ biến, dân ta mới có cơ hội được học một loại chữ viết dễ dàng hơn. Vì cả nước biết chữ chậm, nên tất nhiên hình thành một tâm lý sợ hãi với chữ nghĩa ở rất nhiều người, không những ngại chữ nghĩa mà còn ngại người nhiều chữ nghĩa.

Khoảng cách giữa người có cả bồ chữ nghĩa trong mình với những người biết dăm ba chữ nghĩa rất xa nhau, ở đây không bàn về sự cao thấp, mà khác về văn hóa sống. Cụ thể thế này:
– Người ít chữ: Dễ dàng thấy thỏa mãn ở thú vui vật chất (tiệc tùng, karaoke, gái gú), và cũng dễ dàng ra quyết định làm giàu (chẳng ngại buôn bán những thứ có hại vì đâu cần biết đến cái sự có hại kia), đặc biệt là càng dễ dàng chấp nhận những thứ nhồi nhét vào đầu thông qua trường học và mainstream (vì tự nhủ rằng cũng chả mất gì, còn được lợi vì thấy nhiều người chấp nhận một niềm tin giống mình). Nói thẳng ra, ít chữ thì dễ sống hơn trong một xã hội đa phần là ít chữ.
– Người nhiều chữ nghĩa: Hay cản người khác hành động vì biết nhiều rủi ro ở phía trước, nên người ta ghét. Không cản được cũng khó bề im miệng, vì đã biết mà không nói, nhìn người khác lao đầu vào sai lầm thì khó lắm. Vì cái thói đó, nên người ít chữ ghét. Người ta chỉ muốn cắm đầu làm theo những món lợi đang bày ra trước mắt. Từ cái ghét này của xã hội ít chữ mà sinh ra đủ thứ kiếp nạn đối với chữ nghĩa: bị cấm phát ngôn, bị khinh rẻ, bị bần cùng hóa, bị đấu tố, bị tẩy chay…

Thế nên thân phận dân chữ nghĩa ở Việt Nam khổ hơn chó. Ai cũng có thể đè đầu cưỡi cổ. Dần dần tạo thành cung cách hèn hèn, khúm núm, sợ sệt… thậm chí tự cô lập mình trong một vùng an toàn nhỏ bé. Đôi khi còn tự thấy bản thân tụt hậu so với thời đại. Một khi đã hành xử như vậy, khó tránh được tình trạng ngày càng bị coi rẻ.

Nhưng dân chữ nghĩa sẽ phải làm gì bây giờ? Dường như hầu hết dân chữ nghĩa không nhận ra mình phải chiến đấu với cái gì. Nực cười là họ thường hay chiến đấu với nhau.

Dân chữ nghĩa thường thích bắt bẻ nhau nhưng không dám lên tiếng bắt bẻ những quyết định sai lầm của cường quyền hay người giàu có. Họ có thể viết mấy chục trang để vạch lỗi của nhau, nhưng không dám ngồi soi xem một chính sách sai logic ở đâu, một chỉ thị thiếu thực tế thế nào, một chiến lược tuyên truyền của một tập đoàn đang mị dân ra sao… Nực cười. Bằng chuyên môn của mình, họ sẽ mạt sát đồng nghiệp thay vì ra mặt trực diện phê phán những cách sử dụng sai kiến thức của xã hội. Họ còn chẳng dám từ chối nhận một dự án mà tự bản thân họ thấy sai lè.

Nực cười hơn thế, đến một ngưỡng nào đó, họ dừng tiếp nhận tri thức mới hay trải nghiệm mới. Họ không muốn lật ngược lại sự tích trữ chữ nghĩa trước đó. Ở phương diện này, họ chẳng khác nào những người ít chữ cả. Thay vì đó, họ sẽ dễ hài lòng với tung hô, họ sẽ nuôi một bầy đệ tử để đi bài xích cái mới, hoặc đơn giản là đứng về phía bài xích cái mới.

Nói chung dân chữ nghĩa An Nam khổ như chó là bởi vì ngoại cảnh xã hội, nhưng cũng vì chính bản thân họ nữa. Thủ cựu, yếm thế, đố kỵ… là những tính chất tạo nên cái khổ của dân chữ nghĩa. Họ bị coi rẻ bởi vì họ tự rẻ rúng mình. Thế thôi!

Chữ nghĩa trong tương lai sẽ còn bị coi rẻ, bởi vì sự tồn tại của AI. Ngoài ra, chữ nghĩa ở Việt Nam sẽ còn tiếp tục bị coi rẻ, bởi vì có một dàn những “nhà phê bình nặc danh” đi khua phím trên mạng xã hội, tấn công vào người làm chữ nghĩa. Nhiều người đọc hả hê khi đọc những bài tấn công đó lắm, thật kỳ quặc và rảnh rỗi. Sau tất cả những cuộc công kích ấy, độc giả nhìn từ xa có lẽ sẽ dấy lên suy nghĩ thường trực: “đám văn chương chữ nghĩa, trí thức toàn bọn dốt nát cả ấy mà, đi học tiếng Anh cho nhanh giàu”.

Nền kinh tế khó khăn, tài chính của các cá nhân đều eo hẹp hơn. Có lẽ sách sẽ luôn nằm ở danh mục ưu tiên cắt giảm nhỉ!

“Triết học tri thức” – một cái nhìn hệ thống và gợi mở

Trong thời đại chuyển mình không ngừng của công nghệ và toàn cầu hóa, tri thức không còn là lợi thế, mà là điều kiện tối thiểu để tồn tại, bởi thiếu tri thức ta không thể làm chủ các công cụ, thậm chí bị công cụ thay thế. Các nhà triết học qua nhiều thời đại đã cho thấy: tri thức là một đặc trưng của nhân tính, phân biệt con người với động vật khác, và tới nay, sẽ còn phân biệt con