Home Bình Luận Một Nguyễn Trãi của người dân trong tiểu thuyết “Vạn Xuân”

Một Nguyễn Trãi của người dân trong tiểu thuyết “Vạn Xuân”

hathuynguyenhn

50 minutes ago

Khi nhắc đến Nguyễn Trãi, những danh từ chúng ta thường gán cho ông thường có màu sắc tôn vinh, và khi tôn vinh thái quá lại làm mờ đi con người thực. Chúng ta biết đến Nguyễn Trãi như một “danh nhân văn hóa”, một “nhà nho tài tử”, nhưng “danh nhân văn hóa” hay “nhà nho tài tử” là ai? Không ai cả. Chúng ta sẽ bị áp đặt những hình mẫu được tạo ra bởi niềm tin và kỳ vọng của của chúng ta lên một con người cá nhân. Nhưng với nhà văn, con người cá nhân của các danh nhân lịch sử lại là tâm điểm của sự sáng tạo. Trong số các sáng tác về Nguyễn Trãi, tôi ấn tượng nhất là hai tác phẩm: một là vở kịch “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” của Nguyễn Đình Thi, hai là “Vạn Xuân” của nhà văn người Pháp Yveline Féray. Vở kịch “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” được diễn năm 1980 nhân kỷ niệm 500 năm ngày sinh của ông. Yveline Féray sáng tác trong khoảng thời gian từ 1982 đến 1988, và nhanh chóng nhận được tán thưởng không chỉ độc giả Pháp mà cả độc giả Việt Nam.

Nguyễn Đình Thi viết “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” theo cấu trúc bi kịch lịch sử với ngôn ngữ giàu tính thơ với những câu thoại mang màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng “Vạn Xuân” của Yveline Féray được viết bằng ngòi bút tả thực mà qua đó những cảnh sống của người dân thường đan xen với đời sống của các quý tộc gánh vác nước nhà trên vai đều sống động hiện lên. Dẫu khác nhau về bút pháp và cấu trúc, nhưng cả trong hai tác phẩm, Nguyễn Trãi đều được khắc họa là một nhà nho gần dân. Phẩm cách của Nguyễn Trãi được hun đúc không chỉ từ tri thức của những nhà nho mà còn từ những con người dân gian, những người chẳng được lịch sử ghi lại. Tôi cho rằng, Yveline Féray có lẽ đã chịu ảnh hưởng góc nhìn này từ Nguyễn Đình Thi, tuy nhiên bà đã đi xa hơn ở khía cạnh dân dã của Nguyễn Trãi. 

Góc thành Nam lều một gian…

Câu thơ mở và kết trong bài “Thủ vĩ ngâm” của Nguyễn Trãi thật giản dị, như lời nói thường ngày – “Góc thành Nam lều một gian” – nhưng đã dắt bất cứ ai đọc thơ Nguyễn Trãi vào không gian sống của ông. Khác với những nhà nho thời Lý Trần gánh trên vai nợ anh hùng, Nguyễn Trãi có phong thái của bậc hàn nho. Có hai luồng tranh luận về bối cảnh của “Thủ vĩ ngâm”, một luồng cho rằng bài thơ được viết khi Nguyễn Trãi bị giam lỏng ở Đông Quan, còn một luồng khác cho rằng bài thơ được viết khi ông bị miễn nhiệm vào đầu thời Lê. Nhưng dù ở bối cảnh nào cũng đều phản ảnh không gian sống bên ngoài phủ đệ. Không gian thơ của Nguyễn Trãi cũng là không gian của thiên nhiên và thôn dã, phóng khoáng không giới hạn nhưng bình an êm ả:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vạy then”

(Tự thuật XXIV)

Không gian sống thôn dã của Nguyễn Trãi đã trở thành nguồn cảm hứng cho Yveline Féray. Những người Pháp sang Đông Dương thường có một niềm hứng thú bất tận với văn hóa bản địa tại đây. Lễ thôi nôi, buổi hầu đồng, cuộc đưa tang… tất cả đều được khắc họa chi tiết trong những câu văn của Féray. Nguyễn Trãi là nhân vật chính nhưng không phải là tâm điểm của toàn bộ cuốn sách. Cuốn sách được viết theo trật tự tuyến tính, nhưng bà không kể về cuộc đời ông, không đi sâu vào những tâm tư thời đại của ông, mà để độc giả qua con mắt trong sáng, từ cậu bé Trãi đến nho sĩ Ức Trai, liên tục được chứng kiến những cảnh đời, lòng người, chao đi chao lại giữa thế sự của các thế lực chính trị, va đập trong đau thương của cảnh nước mất nhà tan. Nguyễn Trãi vừa là người chứng kiến, vừa là điểm nhấn trong một bức tranh đa sắc đa màu. Làm thế nào để là điểm nhấn trong bức tranh đa sắc đa màu? Là một khoảng trắng sáng. Rất khó để định hình tính cách của Nguyễn Trãi trong “Vạn Xuân”, không giống như một tượng đài nhà nho tài tử kiểu mẫu trong “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”. Féray cũng ít khi để Nguyễn Trãi thốt lên những quan điểm sống hay các chính kiến thời đại. Nguyễn Trãi của Féray là con người hành động. Không phải Nguyễn Trãi đêm đêm đèn sách mà là một Nguyễn Trãi mang cái phong thái quân tử dạo bước qua làng quê, góc chợ, đường phố, sơn lâm… Một Nguyễn Trãi được gia tộc rèn luyện và tu dưỡng trong vùng thôn dã ở Côn Sơn, không phải như một công tử con nhà quyền quý. 

Yveline Féray có lẽ là cây bút nước ngoài hiếm hoi có thể thành công trong khắc họa bức tranh văn hóa Việt Nam cuối Trần đầu Lê. Trong khi các nhà văn Việt Nam đầu thế kỷ 20 sáng tác văn chương dã sử vẫn với cái nhìn lấy người Kinh chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo làm trung tâm thì Yveline Féray đưa vào tác phẩm của mình sắc màu của những sắc tộc khác cùng chia sẻ chung một mảnh lịch sử. Ta có thể bắt gặp trong sách của bà những người Chăm, nhà sư Ấn Độ Antangana, những người Thượng, người Mường ở núi rừng Khả Lam tức Lam Sơn… Điều đáng nói là bà không nhắc đến một cách hời hợt, cũng không gạt họ ra khỏi tâm điểm của bức tranh, họ đều được viết một cách chi tiết và kỹ lưỡng, từ tính cách đến phong tục. Thậm chí, ngay cả tướng giặc như Hoàng Phúc, Vương Thông cũng không bị bôi xấu, mà được tả thực, chi tiết với tâm tư tình cảm sống động, như một con người, dẫu có bạo tàn và nham hiểm. Có lẽ bởi bà là một nhà văn Pháp, một người không bị gắn bó với căn tính Việt, nên bà có cái nhìn cởi mở hơn, bên cạnh đó, bà có con mắt tò mò trước mọi điều lạ lẫm và kỳ thú. Cái nhìn này của Yveline Féray được phản ánh qua chính cái nhìn của Nguyễn Trãi trong hành trình trưởng thành, tham gia nghĩa quân Lam Sơn và trở thành vị quân sư hàng đầu của nhà Lê ở tiểu thuyết “Vạn Xuân”. 

Túi thơ bầu rượu quản xênh xang…

Yveline Féray viết nên một Nguyễn Trãi dân dã và lý tưởng đầy cuốn hút, đã vượt ra khỏi khuôn mẫu của một nhà nho tài tử. Nhà nho tài tử thường được hiểu như những nho sĩ thực hành lẽ xuất xử, tức là đắc thời sẽ làm quan, mà thất thế thì lui về ở ẩn, và thú vui nhàn dật lại trở thành vẻ đẹp đặc trưng của họ. Nhưng trong suốt những trang văn của Féray, Nguyễn Trãi chưa bao giờ mong muốn làm quan, mối quan tâm của ông đó là thực hiện đạo trung hiếu tiết nghĩa đúng như những câu thơ của ông:

“Bui có một lòng trung lẫn hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”

Được thấm nhuần trong những chất vấn về đạo lý làm người của Phật Nho Đạo từ thuở nhỏ khi ở Côn Sơn, lại chứng kiến biết bao cảnh đời của thời buổi tối tăm, Nguyễn Trãi hun đúc dần trong mình ý nguyện hành đạo ở đời. Trên bước đường lưu lạc, có lần Nguyễn Trãi chứng kiến người ta cười nhạo đạo lý đã cũ rích, lỗi thời, chàng nho sinh rất ít khi phát ngôn đã lên tiếng, rằng ở thời đạo suy thì ta phải hành đạo giữa đời, phải giúp ích cho người dân thì đạo đó mới thực là đạo. 

Với chí khí ấy, Nguyễn Trãi không uốn mình trước tướng giặc Hoàng Phúc, ông xót thương cho những cô đào vốn bị người đời ghẻ lạnh nhưng lại dũng cảm liều chết ám sát địch, ông vượt muôn trùng gian khổ tìm đường đến Khả Lam để gia nhập nghĩa quân, vượt qua những định kiến của một nhà nho để chấp nhận vị chúa công cục cằn đi ra từ núi rừng, cùng với nghĩa quân từng bước chống lại giặc Minh để cứu dân cứu nước. Với chí khí ấy. ông tiếp tục đấu tranh với quyền thần lộng hành ở đầu triều Lê và đến cái chết của mình vẫn giữ tiết tháo của một con người chân chính. 

Hình ảnh “thơ túi rượu bầu” là biểu tượng cảnh nhàn trong thơ của Nguyễn Trãi, và thường gợi sắc màu lãng mạn. Nhưng “thơ túi rượu bầu” còn mang một sắc thái khác, đó là sắc thái hành đạo trong nghịch cảnh. “Thơ túi rượu bầu” khá gần với điển tích kinh điển của Nho gia gắn với người học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Nhan Hồi. Trong số các học trò của Khổng Tử, Nhan Hồi là người nghèo khó và ốm yếu nhất, nhưng lại là người luôn giữ đạo không sai lệch, tiền bạc không làm ông rời khỏi đạo. Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử đã ca ngợi ông: “Hiền thay Nhan Hồi! Một giỏ cơm, một bầu nước, chốn ngõ hẹp, kẻ khác ở tình cảnh ấy thì lo buồn không chịu được, vậy mà Nhan Hồi không đổi cái vui của mình. Hiền thay Nhan Hồi!” Khác với Nhan Hồi, con người nghệ sĩ của Nguyễn Trãi còn có thơ và rượu, có gió trăng mây nước, có chén trà nơi sơn dã. Với Nhan Hồi, nghịch cảnh là để sáng rõ đức hạnh, còn với Nguyễn Trãi, nghịch cảnh giúp con người nghệ sĩ được hiển lộ.

“Túi thơ bầu rượu quản xênh xang,

Quẩy dụng đầm hâm mấy dặm đường.”

(Ngôn chí VIII)

Chính trong những ngày tháng bế tắc chốn quan trường, là lúc trái tim của Nguyễn Trãi xao động trước tài sắc của nàng Thị Lộ, dằn vặt với những đớn đau khi chẳng thể níu giữ nàng đúng đạo vợ chồng. Và cũng chính trong những năm tháng ấy, ông nếm trải mọi cay đắng của một kiếp người dù đã cứu được dân cứu được nước. Đạo quân tử của ông bị thử thách bởi chính những gì ông yêu thương, bởi chính triều đại mà ông góp phần gây dựng nên. Sự im lặng ngậm đắng nuốt cay thoái ẩn của Nguyễn Trãi cũng là một lựa chọn, một lựa chọn trọn vẹn đạo nghĩa, không thể vì nỗi đau của mình mà gây sóng gió triều đình, khiến trăm họ lầm than. Ông cũng lựa chọn chấp nhận oan khuất mà số phận giáng xuống, không cố trốn chạy và tự nhủ một câu trong “Nam Hoa Kinh”: “Biết rõ điều mình không chống lại được nhưng vẫn chấp nhận nó như định mệnh của mình, nhân đức cao cả là ở chỗ đó”

Khác với nhà nho tài tử vui vầy với cầm kỳ thi họa, Nguyễn Trãi dưới ngòi bút của Yveline Féray là hình mẫu nhà nho hành động và gần dân. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi được tu dưỡng theo đúng mô hình Nho sĩ cổ điển với lục nghệ, sống gần dân chúng để thấm nhuần đạo lý “dân vi bản”, được nung nấu trong lý tưởng cứu đời. Và trong không gian hòa trộn giữa dân dã và quý tộc, con người tài tử nhen mầm. Khác với ông nôi và cha mình, Nguyễn Trãi làm thơ quốc âm, trong thơ là đời sống thôn dã quen thuộc của xứ Việt. Và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một người dám tuyên bố rằng: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và thay vì tỏ lòng trung với vua thì ông tỏ lòng trung với nước với dân. 

Đương nhiên, chúng ta cần nhớ rằng đó là Nguyễn Trãi của Yveline Féray, không phải Nguyễn Trãi trong tưởng tượng của mỗi chúng ta và cũng không phải Nguyễn Trãi trong lịch sử, không phải Nguyễn Trãi như ông vốn là. “Vạn Xuân” đã rất thành công trong khắc họa đời sống đa văn hóa, đa sắc tộc ở Đại Việt thế kỷ 15 cũng như con người chính trị của Nguyễn Trãi nhưng dường như Féray chưa thực sự chạm sâu vào tâm hồn tài tử của ông. Trong khắc họa chân dung Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Thi có phần thành công hơn, bởi giữa Nguyễn Đình Thi và ông có nhiều điểm chung trong tâm hồn và thân phận cũng như lựa chọn chính trị. Nhưng Nguyễn Đình Thi chỉ dừng lại ở thời trai trẻ tràn đầy nhiệt huyết của Nguyễn Trãi, còn Féray đi đến nửa kia của cuộc đời Nguyễn Trãi khi khởi nghĩa thành công, đánh đuổi được giặc dữ nhưng lý tưởng lại chẳng thành. Và bởi thế, “Vạn Xuân” chân thực hơn và chạm đến cái bi của thời đại hơn. 

“Vạn Xuân” khép lại bằng những cảnh tượng sau cái chết của gia tộc Nguyễn Trãi. Người ta đau đớn, xót xa, người ta hả hê, đắc thắng… rồi người ta lau dọn pháp trường, và tất cả lại trở về với cái êm ả thanh bình thường nhật. Cái kết ấy, chính là lựa chọn của Nguyễn Trãi, và có lẽ Yveline Féray đã nhận ra bi kịch của lựa chọn này trong thân phận của hầu hết các trí thức chân chính ở Việt Nam. 

Hà Thủy Nguyên

> Đọc thêm:

Vãn hứng – Nguyễn Trãi

Cuối ngõ náu mình nỗi quạnh hiu Khăn đen gậy trúc dạo bước chiều Xế tà thôn vắng cây ngưng bóng Cầu ngập đường hoang vắng tịch liêu Thời gian trôi mãi sông mờ mịt Anh hùng ôm hận lá liêu xiêu Về tựa lan can ngồi lẻ chiếc Trăng trong trời biếc một mảnh treo. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Cùng hạng u cư khổ tịch liêu, Ô cân trúc trượng vãn tiêu diêu. Hoang thôn nhật lạc, hà thê thụ. Dã

Côn Sơn Ca – Nguyễn Trãi

Côn Sơn có suối Nghe âm tịch mịch rơi Ta làm dây đàn chơi. Côn Sơn có đá Mưa sạch rêu xanh phủ Ta làm chiếu trúc ngủ. Trong núi có tùng Vạn dặm xanh mênh mông Ta nhàn nhã nằm suốt ngày ròng Trong rừng có trúc Ngàn mẫu in sắc lục Ta chốn đây ngâm nga điệu khúc Hỏi người cớ gì chẳng về ngay, Nửa đời bụi trần vướng chi đây? Muôn chung chín vạc làm gì nhỉ? Nước cơm đạm bạc

Thính vũ – Nguyễn Trãi

Tịch mịch trai phòng tối Thâu đêm nghe tiếng mưa Não nề xịch gối khách Đếm canh tàn giọt rơi. Trúc khua ngoài song vắng Chuông lẩn vào mộng suông Ngâm nga hồn chẳng ngủ Đứt nối đến tinh sương. Bản Hán Việt: Tịch mịch u trai lý, Chung tiêu thính vũ thanh. Tiêu tao kinh khách chẩm! Điểm trích sổ tàn canh. Cách trúc xao song mật, Hoà chung nhập mộng thanh. Ngâm dư hồn bất mị, Đoạn tục đáo thiên minh. *Tranh minh

Mạn hứng – Nguyễn Du

Kỳ 1 Trăm năm thời thế mặc phong trần Tha phương sông biển biết bao lần Gác vàng chốn cũ đâu còn mộng Hư danh đầu bạc vẫn vương thân Ngày xuân nhiễm bệnh không thuốc chữa Phù sinh nhập cuộc những lo toan Ngàn dặm quê xa lòng nhung nhớ Ngựa hèn xe xấu thẹn đông lân Kỳ 2: Lưu lạc nổi chìm ngọn cỏ bồng Nam bắc giang hồ túi rỗng không Văn chương kiết xác trăm năm ấy Trời đất lênh đênh