Bất kỳ dân tộc nào rơi vào cảnh cùng đường, buộc phải chống lại kẻ xâm lược giàu mạnh hơn, đều dễ bị gán cho cái mác “khủng bố”. Việt Nam cũng từng trải qua điều đó.
Trong chiến tranh Việt – Mỹ, bộ máy tuyên truyền và giải trí của phe chủ chiến Mỹ đã dày công xây dựng hình ảnh một quốc gia Cộng sản tàn bạo, chuyên tẩy não và gieo rắc khủng bố. Mọi nỗ lực nhằm chỉ ra một sự thật khác, dù là sự thật của người trong cuộc hay từ những người Mỹ phản chiến, đều dễ bị gạt đi bằng những cáo buộc như “phản quốc” hoặc “bị tẩy não bởi Cộng sản”.
Trong cuốn sách Tù binh bất đồng chính kiến, tác giả Tom Wilber kể lại câu chuyện có thật về cha mình, một người lính Mỹ từng bị bắt làm tù binh tại Việt Nam, nhưng cũng là một trong những tiếng nói phản chiến mạnh mẽ nhất từ bên trong hàng ngũ quân đội Mỹ.
Ông không xem Việt Cộng là khủng bố. Ông hiểu họ là những người đang đấu tranh cho độc lập dân tộc, giống như nước Mỹ từng đứng lên chống lại Đế quốc Anh hơn một thế kỷ trước. Chính sự thật ấy đã khiến ông và các đồng đội phản chiến trở thành mục tiêu công kích của chính quyền Mỹ và bộ máy truyền thông. Họ bị bôi nhọ là phản quốc, là bị “tẩy não bởi Cộng sản”, là kẻ thù từ bên trong. Wilber không tô vẽ. Ông thu thập tư liệu, lời kể, hồ sơ quân sự, và cả những ký ức bị lãng quên để phơi bày cách mà một nhà nước dân chủ có thể vận hành như một cỗ máy kiểm soát tư tưởng khi cần duy trì một cuộc chiến sai trái. Những kẻ xâm lược luôn có cách hợp lý hóa bạo lực của mình. Khi họ thả bom xuống làng mạc, phá hủy trường học, sát hại dân thường, họ không gọi đó là tội ác, họ gọi đó là “chống khủng bố”. Họ nói: “đó không phải dân thường, đó là kẻ thù”. Một cái nhãn được dán lên để xoá sạch trách nhiệm đạo đức. Nhưng phải chất vấn điều này:-
Ai đã biến một dân tộc thành khủng bố?
-
Ai đẩy họ đến chỗ cầm súng, đặt mìn, liều chết?
Khi một dân tộc bị chiếm đất, bị chà đạp, bị gọi là “cộng sản man rợ” hay “quân khủng bố đội lốt nông dân”, thì cái nhãn đó không nói gì về họ, nó nói rất nhiều về kẻ gán nhãn. Bởi ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Và nếu đấu tranh cho độc lập bị gọi là khủng bố, thì lịch sử cần xét lại cả những cuộc cách mạng từng được ca tụng.
Giờ đây, trong hòa bình, thật dễ để ngồi trước màn hình, nhìn một dân tộc xa xôi nghèo khổ, tay cầm súng, rồi buông một câu lạnh lùng: “Khủng bố.”
Thật dễ để phán xét khi bom đạn không rơi trên đầu mình.
Thật dễ để coi thường một dân tộc khi mình đã no đủ, còn họ đang chiến đấu giành lại mảnh đất tổ tiên.
Nhưng chúng ta quên mất rằng, đã từng có một thời người Việt Nam cũng bị gọi là khủng bố. Khi xẻ dọc Trường Sơn, đào hầm trú bom, cầm súng chống lại những kẻ mang bom napalm tới, chúng ta không phải khủng bố , chúng ta là một dân tộc chiến đấu để tồn tại.
Và nếu chúng ta không thể nhìn thấy chính mình trong nỗi đau và kháng cự của những dân tộc khác hôm nay, thì có lẽ chúng ta đã thật sự quên mình là ai.
Đương nhiên, bạo lực không bao giờ là giải pháp tối hậu. Không thể dùng bạo lực để xóa bỏ bạo lực mà không để lại những vết thương sâu hơn. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta nên im lặng trước một sự thật rõ ràng: kẻ giàu mạnh gieo rắc bạo lực với danh nghĩa “chính nghĩa”, còn kẻ yếu chống trả thì bị gọi là “khủng bố”.
Một quốc gia thật sự văn minh không dùng drone để gieo bom rồi dùng truyền thông để rửa tội. Một cường quốc xứng đáng với sự kính trọng không đẩy các quốc gia nghèo vào thế tuyệt vọng rồi ra vẻ đạo đức khi họ phản kháng.
Sức mạnh, nếu không đi cùng lòng trắc ẩn và công lý, chỉ là sự đàn áp được hợp pháp hóa.
Văn minh, nếu không giúp người yếu đứng dậy, thì chỉ là một lớp vỏ hào nhoáng che giấu sự tàn nhẫn.
Chúng ta có được hòa bình không chỉ nhờ những người cầm súng trên chiến trường, mà còn nhờ những người dám cất tiếng nói phản chiến khi tiếng súng còn chưa dứt.
Là những nhà báo, văn nghệ sĩ, sinh viên, linh mục, nhà khoa học, những con người bình thường nhưng can đảm, dám đứng lên giữa làn sóng tuyên truyền, dám nói “không” với chiến tranh khi số đông vẫn còn say sưa trong ảo tưởng về “chính nghĩa vũ lực”.
Chính họ là những người góp phần chấm dứt chiến tranh bằng sự thật, bằng lý trí, và bằng tình người.
Vì thế, mỗi tiếng nói phản chiến hôm nay, dù nhỏ, cũng là một viên đá đặt nền cho hòa bình ngày mai. Bởi im lặng trước bạo lực là tiếp tay cho nó. Còn cất tiếng, dù chỉ để nhắc người khác nhớ rằng công lý vẫn còn chỗ đứng, thì đó đã là một hành động kháng chiến của lương tri.
Hà Thủy Nguyên
