Trong thời đại chuyển mình không ngừng của công nghệ và toàn cầu hóa, tri thức không còn là lợi thế, mà là điều kiện tối thiểu để tồn tại, bởi thiếu tri thức ta không thể làm chủ các công cụ, thậm chí bị công cụ thay thế. Các nhà triết học qua nhiều thời đại đã cho thấy: tri thức là một đặc trưng của nhân tính, phân biệt con người với động vật khác, và tới nay, sẽ còn phân biệt con người và máy móc. Kant từng nói: “Hãy dám biết!”, Francis Bacon nhấn mạnh: “Tri thức là sức mạnh” – và ngày nay, sức mạnh đó nằm ở khả năng làm chủ công nghệ, không để bị chi phối bởi nó. Arendt thì cảnh báo rằng nếu thiếu tri thức và tư duy đạo đức, con người dễ trở thành công cụ vô cảm trong guồng máy hiện đại. Với vai trò quan trọng như vậy, việc nghiên cứu về bản chất của tri thức là một chủ đề cấp thiết, đã và đang được các nhà triết học quan tâm.
Trong bầu không khí thời đại này, nhà nghiên cứu triết học Phạm Văn Chung, có thể nói, đã trở thành người VIệt tiên phong chạm vào chủ đề trọng đại, vừa mang tính lịch sử lại vừa mang tính thực tiễn đương thời này, qua cuốn sách “Triết học tri thức” (NXB Tri Thức, 2025). Ông Phạm Văn Chung hiện đang nghiên cứu và giảng dạy triết học tại Khoa Triết học, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn) với những công trình nghiên cứu về học thuyết Marx về hình thái kinh tế xã hội, lịch sử, đạo đức; triết học Friedrich Nieztches, đạo học của Lão Tử, đức học của Nho giáo. “Triết học tri thức” vừa là một đề tài nghiên cứu trong trường đại học, nhưng cũng vừa là một công trình nghiên cứu để đời của ông, với 15 năm chiêm nghiệm và tự biện. Ông Phạm Văn Chung, bằng phương pháp tổng hợp phức hợp (mà ông đã tự gọi tên trong công trình của mình), cùng với những nền tảng từ triết học Hegel, Kant, Morin, Popper trong sự đối sánh và lập luận đã nỗ lực xây dựng một học thuyết mới về tri thức của riêng mình.
Xây dựng một hệ ý niệm mới
Là một giảng viên triết học thuộc hệ chính quy với nền tảng ban đầu là triết học Marx, nhưng không Chung không dừng lại ở đó. Có lẽ những năm tháng vật lộn với tư tưởng đã thôi thúc trong ông những câu hỏi lớn về nhiều khái niệm phổ quát, mà trong cuốn sách này chủ yếu tập trung vào “triết học” và “tri thức”, mà chủ yếu cách định nghĩa của ông được phát triển lên từ hệ thống triết học cổ điển Đức với các đại diện như Hegel, Kant và Marx.
Hegel, Kant và Marx dù có những định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều thống nhất quan điểm rằng tri thức là kết quả của quá trình nhận thức. Tuy nhiên, tác giả không đồng ý với quan điểm này, ông đồng tình với Kit R. Christensen trong tác phẩm “Philosophy and Choice”, cho rằng “triết học cần được hiểu như một hoạt động nhận thức”, nó là quá trinh “truy tìm, tra vấn” đối tượng. Nói một cách khác, triết học không phải là “một lý thuyết hay hệ thống tri thức đã hoàn thành với tư cách kết quả”. Triết học cũng không đi vào các biến thể hay biểu hiện mà đi vào bản chất, cái nền tảng, cái căn bản hay quá trình bên trong tất yếu của đối tượng. Khác với các lĩnh vực khác của tư tưởng như tôn giáo hay nghệ thuật, triết học gắn liền với lý tính, ông gọi quá trình này là “nhận thức lý luận”, và tất yếu, để trở thành một tư tưởng triết học thì cần thiết phải có một “hệ thống lý luận”. Không chỉ đi vào cái cốt yếu, thuộc triều sâu, triết học cũng đi vào chiều rộng mang tính bao quát các lĩnh vực tri thức khác với các cấp độ khác nhau. (1)
Với quan điểm rằng triết học như một hoạt động nhận thức hay vì là kết quả của quá trình nhận thức, tác giả đã thoát khỏi định nghĩa triết học được hình thành trong nền văn minh in ấn. Trước khi có máy in của Gutenberg giúp sách được in nhiều hơn, hoạt động triết học chủ yếu được thực hiện và bột phát bằng quan sát, đối thoại, tự biện, diễn thuyết. Ví dụ, Plato và Diogenes đã đối thoại với nhau mà qua đó vừa phản biện lẫn nhau vừa củng cố triết thuyết của mình: “Khi Plato đang trò chuyện về các Khái niệm và sử dụng các danh từ “phẩm chất của chiếc bàn” và “phẩm chất của chiếc cốc”, ông nói: “Plato ạ! Tôi đã thấy cái bàn và cái cốc, nhưng tuyệt nhiên chưa thấy phẩm chất của chiếc bàn và phẩm chất của chiếc cốc của ông bao giờ”. Plato đáp lại: “Điều này giải thích dễ dàng, vì ông có đôi mắt để nhìn thấy chiếc bàn và chiếc cốc hữu hình, nhưng lại không có khả năng hiểu biết mà nhờ đó người ta nhận thức được quan niệm về chiếc bàn và chiếc cố bằng giác quan.” (2)
>> Đọc thêm: Bầu không khí tại triết học Hy Lạp cổ đại: Khi triết học không chỉ nằm trong trang giấy – Hà Thuỷ Nguyên
Đến khi việc in ấn trở nên phổ biến, hành động nhận thức trở thành phần ẩn trong triết học, thay vì đó, các triết gia trình bày hệ thống tư tưởng của mình thành tiểu luận hoặc sách. Từ đó, quá trình nhận thức lui về “hậu trường”, không còn được nghiên cứu và xem xét như một phần của triết học nữa, thay vì đó, người ta chỉ tập trung vào tác phẩm, tức là kết quả của hành động. Tất yếu, dẫn đến tình trạng hậu thế đóng khung triết thuyết của một triết gia trong hệ tư tưởng đã được định hình thành tác phẩm, đôi khi là cực đoan và áp đặt, thậm chí chối bỏ những tư tưởng chưa định hình của chính triết gia ấy trong toàn bộ sự nghiệp triết học. Hơn nữa, coi triết học là hành động nhận thức tạo ra một nhãn quan tích cực trong sự khuyến khích chiêm nghiệm, phát hiện và lập thuyết từ chính quá trình sống và nhận thức thay vì chỉ tổng hợp lại những triết thuyết đã có. Với thiên hướng định nghĩa triết học như vậy, cuốn sách của ông Trung không đưa ra một khung lý thuyết để áp đặt mà gợi lên những câu hỏi lớn về tri thức, cho phép những học trò của ông hoặc những người phản biện ông tiếp tục con đường của mình. Suy cho cùng, phản biện cũng chính là sự kế thừa.
Từ nhãn quan nhận thức luận, ông Phạm Văn Chung tiếp tục triển khai định nghĩa về tri thức. Phức tạp hơn triết học, “tri thức” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau trong suốt dòng lịch sử. Tác giả cho rằng, “tri thức” nên được tách khỏi triết học nhận thức, bởi vì mặc dù tri thức được sản sinh từ nhận thức, nhưng tri thức là kết quả đúc kết tinh túy nhất của quá trình nhận thức hay có thể hiểu là nhận thức đã được xác nhận. Ông lấy ví dụ bằng câu hỏi “Trái Đất có hình gì?”, và cho rằng chỉ đến khi người ta đúc kết được rằng “Trái Đất có hình cầu” thì mới thực sự là tri thức. (3) Tác giả không đồng tình với quan niệm truyền thống từ triết học Hy Lạp cổ đại rằng tri thức vừa là quá trình vừa là kết quả của nhận thức. Tuy nhiên, từ ví dụ “Trái Đất có hình cầu” đã cho thấy sự bất toàn của quan điểm này.
Trên thực tế, Trái Đất không có hình cầu, hình cầu chỉ là kết quả của quá trình trừu tượng hóa, nó không tồn tại trong thực tế. Hơn nữa, Trái Đất không phải là một thể tĩnh, mà nó luôn biến dịch. Trong một tương lai xa xôi, khi loài người không tồn tại trên Trái Đất nữa, và có thể nó chỉ còn là những mảnh thiên thạch, vậy thì ta có thể gọi nó là hình cầu hay không. Từ cách đây hơn 2500, tuy Aristotle không thể đưa ra kết quả “Trái Đất có hình cầu”, nhưng ông đã chỉ rõ tính chất biến dịch vĩnh cửu của các vật trong không gian, và nếu có gì không biến dịch thì chính là tự tính, là cái tiềm năng trước khi nó hiện thể. (4) Thậm chí nó có còn có thể được gọi là “Trái Đất” hay không. Thế nên, ta chỉ có thể nói “Trái Đất như ta đang sống trên đó và đang nhận thức về nó có hình thù gần với hình cầu”. Điều này đồng nghĩa với việc ta vừa nhận thức được dạng hình của Trái Đất nhưng cũng vừa tiếp tục nhận thức tiếp về những biến dịch của Trái Đất. Định nghĩa tri thức vừa là quá trình cũng vừa là kết quả của nhận thức cũng được ông nhắc tới trong chính cuốn sách của mình, mặc dù ông không đồng thuận với quan điểm này.
Không chỉ dừng ở đó, ông còn chỉ ra những quan điểm khác về bản chất của tri thức như: tri thức là cái tinh thần, tri thức là một cơ chế “vật lý – hóa – sinh” hay cơ chế vật chất, tri thức là thông tin, tri thức là sự thấu hiểu. Những quan điểm này được ông Chung chất vấn, tìm kiếm các phản chứng, phản đề và chỉ ra những khiếm khuyết. Từ đó, ông cũng đặt lại những phương pháp triết học tri thức, mà trong đó đặt tri thức trong mối quan hệ với đời sống. Tuy nhiên, khiếm khuyết của cuốn sách lại nằm trong sự thiếu tính đời sống. Là một người nghiên cứu lý luận triết học, ông Phạm Văn Chung vẫn sử dụng lý luận để minh chứng và giải thích lý luận. Tính đến giờ, đây là khiếm khuyết chung của người nghiên cứu triết học Việt Nam, thậm chí là đại đa số người nghiên cứu các lĩnh vực tri thức khác nhau ở Việt Nam. Họ đóng kín trong lý luận và các khái niệm trừu tượng, trong khi thiếu sự quan sát, thậm chí là nhập cuộc để quan sát như các nhà nghiên cứu nhân học. Điều này khiến cho triết học nói riêng và các ngành nghiên cứu nói chung tự lặp lại chính mình, không bắt kịp những biến động của xã hội, cũng như không có nhiều phát hiện mang tính đột phá. Hoặc nếu có, thì nó đóng góp hạn chế cho sự dịch chuyển của lĩnh vực ấy cũng như rất ít tác động đến quá trình Tạo – một quá trình ứng dụng của tri thức mà tác giả đề cập đến trong cuốn sách.

Nhiều câu hỏi còn bỏ ngỏ
Triết học tri thức không phải một dòng chủ đề mới trong nghiên cứu triết học. Từ thời Hy Lạp cổ đại, những câu hỏi về bản chất, giới hạn và giá trị của tri thức đã là trung tâm trong các cuộc tranh luận triết học. Plato coi tri thức là sự hồi tưởng về thế giới lý tưởng; Aristotle phân biệt giữa nhận thức lý thuyết và nhận thức thực tiễn. Đến Descartes, câu hỏi về nền tảng chắc chắn của tri thức trở thành điểm khởi đầu cho cả một thời kỳ triết học. Kant chất vấn điều kiện để tri thức khả hữu, còn Nietzsche chất vấn chính cái gọi là “chân lý”. Nói cách khác, triết học tri thức đã được chạm đến nhiều lần – nhưng chưa từng được định hình một cách nhất quán, đầy đủ và rõ nét như một hệ thống độc lập.
Cuốn sách “Triết học tri thức” của ông Phạm Văn Chung là một nỗ lực hệ thống hóa chủ đề quan trọng này. Đặc biệt trong thời đại hiện nay, khi dữ liệu và thông tin trở thành tài nguyên chiến lược, khi AI bắt đầu học và quyết định thay con người, thì các câu hỏi triết học về tri thức càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta vẫn chưa trả lời được những câu hỏi nền tảng như: Tri thức là gì trong kỷ nguyên máy học? Khi một cỗ máy đưa ra kết luận đúng, ta có thể gọi đó là tri thức không? Tri thức mà không đi kèm hiểu biết hay đạo đức thì có còn là tri thức? Ai có quyền xác định đâu là tri thức hợp lệ trong một xã hội nhiễu loạn thông tin? Thậm chí, giữa máy TẠO từ những tri thức sẵn có khác với người TẠO như thế nào? Và nếu máy cũng có thể xử lý các dữ liệu đầu vào để đưa ra một kết quả được chấp nhận là đúng, thế thì tri thức có còn là đặc trưng để phân biệt con người và máy nữa hay không.
Câu trả lời cho những vấn đề này rõ ràng không thể chỉ dừng ở lý luận và cũng không thể quy giản hóa bằng các khái niệm trừu tượng. Nhưng chính vì vậy, triết học tri thức hôm nay không phải là sự lặp lại những gì cũ, mà là sự tiếp tục của một hành trình chưa hoàn tất. Nó đòi hỏi sự trở lại, tái định nghĩa và mở rộng những nền tảng cũ trong một bối cảnh hoàn toàn mới. Thậm chí, nó còn đòi hỏi sự quan sát chi tiết và kỹ lưỡng các chuyển động của cuộc sống, vừa cận cảnh vừa toàn cảnh, vừa cụ thể vừa phổ quát để có thể tiệm cận hơn tới bản chất của tri thức.
Với cuốn sách, tôi cho rằng ông Phạm Văn Chung đang cố gắng tạo ra những con người triết học mới và những con người tri thức mới có tính đời sống hơn, thoát ra khỏi sự hạn hẹp của lý luận và mạnh dạn bước vào quá trình TẠO. Nhưng dường như, cuốn sách khó thuyết phục được những bộ óc cuồng nhiệt lý luận, thay vì đó, cuốn sách lại hữu ích và trang bị thêm lý luận cho những người TẠO. Những người sáng tạo, kiến tạo…, dù thực hiện hoạt động TẠO của mình một cách bản năng hoặc theo thói quen đã được tôi rèn, nhưng đến một ngưỡng nào đó, để vượt qua chính mình, và vượt qua máy móc, họ sẽ tìm đến lý luận, dù cho lý luận ấy là hoạt động diễn ra trong tư tưởng của nhà triết học chứ chưa có thực tiễn, nhưng lại luôn gợi mở các khía cạnh mới.
Hà Thủy Nguyên
*Ảnh minh họa: Pinterest
Chú thích:
- Trang 33 -41, “Triết học tri thức”, Phạm Văn Chung, NXB Tri Thức, 2025
- Trang 303, “Cuộc đời các triết gia nổi tiếng”, Diogenes Leartius, Nguyễn Thanh Xuân dịch, Book Hunter & NXB Đà Nẵng, 2023
- Trang 136-139, “Triết học tri thức”, Phạm Văn Chung, NXB Tri Thức, 2025
- Trang 452 – 458, “Siêu hình học”, Aristotle, Nguyễn Nguyên Hy & Lê Duy Nam dịch, Book Hunter & NXB Đà Nẵng, tái bản lần I – 2024.
