(Tôi viết cho bố ngày bố qua đời)
Ngày lại ngày… ta thấy cái chết ở mọi ngóc ngách của cuộc sống… Một bản nhạc hay đi đến phần kết… Một tấn kịch hay đã khép hồi… Một vần thơ đi đến kiệt cùng cảm xúc… Cái đẹp của bông hoa bỗng úa tàn… Cái chết luôn hiện diện. Những kẻ không thể cảm nhận được sự bi thương trong từng khoảnh khắc của sự sống thì không thể hiểu được cái chết.
Người ta nói cái chết là để bắt đầu cho một sự tái sinh. Những người nói vậy không hiểu gì về cái chết. Chết là chết, tái sinh là tái sinh. Chết là con đường duy nhất đưa ta đến với hư vô. Một sự hư vô tưởng chừng như miên viễn. Tại đây, ta được một mình đối diện với chính mình, được tự do không ràng buộc, được trút khỏi linh hồn mọi sự ô trọc của cõi đời đã khoác lên ta. Hư vô là tột đỉnh hạnh phúc của sự chết.
Những kẻ còn sống khóc thương người đã khuất không phải vì tình thương mà vì sự níu kéo, vì sợ cảm giác trống trải, vì mơ hồ không thể tiếp nhận nổi nỗi cô đơn sung sướng của hư vô. Kẻ còn sống mông muội như những ngôi nhà trơ trọi khư khư bám lấy nền móng của mình, hiểu sao thấu sự bay bổng không giới hạn của gió, chịu sao nổi những trận mưa liên hồi của bi thương, và không thể bình an như vầng trăng ung dung dát bạc khắp bốn phương lồng lộng. Bởi thế, kẻ còn sống đôi khi chỉ là vật thể chết, mà người đã chết lại thổi bừng lên sức sống mãnh liệt. Sống chết bởi thế, chỉ là khái niệm.
Khi nghe một bản nhạc, đọc một bài thơ, xem một tấn kịch, ngắm vẻ đẹp của hoa… , kẻ hiểu về cái chết không yêu thích khoảng thời gian “còn sống” của chúng, mà yêu thích cái cảm giác những tạo tác tuyệt diệu ấy đã thay đổi ta, tái tạo ta thành một khối linh hồn hoàn mỹ hơn. Một người chúng ta yêu quý ra đi, ta có thể quên đi rất nhiều ký ức về họ nhưng ta lại say đắm với những gì của họ ở trong ta. Cái chết của một người yêu quý khiến ta yêu bản thân mình hơn, bởi ta nhận ra rằng sự hiện diện của ta là hiện thân cho sự tồn tại của ho trên thế giới điên đảo này. Bằng cách ấy, ta gần gũi với họ hơn bất cứ sự khóc thương nào khác. Và cũng bằng cách ấy, ta gắn kết với họ ở cõi hư vô mà không ràng buộc níu kéo họ.
Tại nơi chốn hư vô ấy, khi tất cả đều im bặt và tĩnh lặng, người đã khuất có thể nhìn lại vận mệnh của mình trong kiếp vừa trôi qua, hoặc xa xưa hơn thế. Nhưng nếu ta xâm phạm sự tĩnh lặng ấy bằng việc đưa linh hồn người đã khuất vào một “cõi” nào đó mà chúng ta tin rằng ở “cõi” ấy linh hồn sẽ được an ủi, thì ta đã sai lầm. Các “cõi” chỉ là những cái bẫy lừa bịp của loài ác quỷ giăng ra để bãy những linh hồn kém cỏi và sợ hãi. Tại các “cõi” này, linh hồn lại phải khoác lên mình những chiếc áo và lại bị đưa vào những nơi chốn đầu thai phù hợp với cái áo vừa khoác lên. Thế rồi người ta gọi đó là … “siêu thoát”.
Sự siêu thoát thật sự chỉ đến với những tinh thần hoàn toàn tự do, tự do khỏi chiếc áo, tự do khỏi ham muốn sự sống, tự do khỏi mọi định mệnh. Sự tái sinh chỉ diễn ra khi định mệnh được lựa chọn một cách tự do chứ không phải sự áp đặt. Đó là sự siêu thoát đích thực chứ không phải những cái bẫy nhân danh “siêu thoát”. Và bởi ta để người ta yêu quý tự lựa chọn cho bản thân con đường ở cõi chết, họ sẽ chọn định mệnh quay trở về bên ta. Bởi một phần của họ luôn hiện diện trong ta giống như âm vang cảm xúc của khúc nhạc, những thang bậc tình cảm của thi ca, những chiêm nghiệm sau một vở kịch, ấn tượng đẹp đẽ của bông hoa… đều đã hòa quyện cùng tinh thần ta.
Hà Thủy Nguyên