Home 2017 / page 12

Vị thần không tên

Chúng ta chẳng bao giờ hiểu được tại sao đôi khi chúng ta lại có những trạng thái điên rồ được gọi tên bằng “cảm xúc”, bởi vì đó là một điều huyền bí… mà những điều huyền bí thì có bao giờ hiển hiện một cách rạch ròi để ta có thể chạm vào đâu. Và cũng một cách huyền bí, lời lý giải cho những trạng thái ấy đã được kể lại. Tuy nhiên, chẳng ai tin câu trả lời ấy cả và khi người ta càng không tin thì nó lại càng huyền bí. Mỉa mai vậy đấy!

Câu trả lời đơn giản thế này thôi, đơn giản nên người đời không tin thì cũng dễ hiểu: Những vị thần đã xúi bẩy chúng ta đấy. Câu trả lời này đã cũ mèm, chúng ta đã nghe về nó quá nhiều… Họ – kẻ thì làm chúng ta phấn khích; kẻ thì đẩy ta vào nỗi đau đớn, dằn vặt; kẻ thì đem đến cơn cuồng nộ không thể kiểm soát… tất cả… tham lam, say đắm, thù hận…  đâu thuộc về chúng ta. Chúng ta chỉ là những con rối cho họ giật dây và họ có vẻ thích thú lắm với công việc dã man này. Nhưng sự mê hoặc của họ cũng thật kinh khủng bởi chúng ta lại quá quen thuộc với loại ma thuật này tới mức không thể nào sống mà thiếu chúng.

Trong thế giới của các vị thần cảm xúc ấy, một ngày bỗng ra đời một nữ thần. Nàng không thể khóc, không biết cười, cũng chẳng biết tức tối. Trên khuôn mặt của nàng chỉ có một vẻ bình thản đến kì lạ trước mọi sự. Và với khuôn mặt ấy, nàng có thể làm chủ trạng thái cảm xúc nào của thế giới loài người? Nàng không biết và tất cả các vị thần cũng không thể giúp gì hơn. Nàng bay lượn cùng họ trong không trung và chứng kiến họ tung hứng tinh thần của con người như một quả bóng. Nàng chẳng thấy thích thú gì với trò chơi này và bắt đầu nàng thấy rõ một điều rằng hình như nàng không thuộc về nơi này. Sự ra đời của nàng có lẽ là một sai số của tạo hóa. Nhưng nếu như sự ra đời phải có một ý nghĩa nào đó thì có thể ý nghĩa của nàng không nằm ở đây…

Đôi khi, nàng thấy những con người kêu lên bởi không thể chịu đựng được những trò đùa này, nàng định lên tiếng để giúp họ xoa dịu nỗi đau, nhưng những vị thần khác ngăn nàng lại. Vị thần của Lo Lắng nghiêm trọng khuyên bảo:

  • Này em, đừng bao giờ đáp lại lời của người trần thế?
  • Tại sao ạ? – Nàng nhìn vị thần thắc mắc.
  • Khi em đáp lại lời của họ, em sẽ mất đi sự thần thánh của mình… Em sẽ trở thành người trong số họ…
  • Nhưng bi kịch hơn… – Vị thần Buồn Rầu lên tiếng – Đó là chúng ta không thể chết sau đó. Chúng ta bất tử mà…
  • Thì sao chứ? – Nàng vẫn không hiểu tại sao điều ấy lại quan trọng đến thế…
  • Vì nếu em không chịu nổi cảnh làm người, em chỉ có thể cầu xin đấng Tạo Hóa để em ở dưới Địa Ngục.

Họ lại cho nàng một bài thuyết giảng về Địa Ngục mà khổ lắm, đã có ai xuống đến Địa Ngục đâu kia chứ. Nàng thấy làm thần hay làm người thì có gì khác biệt nhau? Những kẻ cả đời làm con rối và những kẻ cả đời làm mỗi một việc là điều khiển lũ rối mà chẳng hiểu tại sao mình phải làm điều đó. Nhưng vì nghe quá nhiều, dần dần nàng cũng quên mất sự tò mò, nàng cũng mặc định tin rằng nàng thực sự thuộc về thế giới các vị thần.

Một hôm, nàng nghe các vị thần kháo nhau chuyện lạ lắm. Ở một thành phố của những cơn mưa có một chàng trai dường như trái tim của chàng vô cảm. Mọi lời thì thầm xúi bẩy của các vị thần vô dụng với chàng. Điều này khiến nàng động tâm. Có một kẻ không chịu làm con rối sao? Nàng vội vã theo sau các vị thần để đến xem thử xem chàng có thật sự kỳ diệu như vậy hay chăng?

Lúc ấy, chàng đang nằm trên một căn gác xép nhỏ. Trời mưa bão ầm ầm bên ngoài ô cửa sổ. Các vị thần Lo Lắng, Sợ Hãi xung phong tấn công chàng dồn dập, vô ích! Chàng vẫn nằm im một cách lười biếng, đôi mắt dõi xa xăm nhìn ra màn kính ràn rụa nước mưa. Lúc ấy một bản nhạc với tiếng violon buồn réo rắt làm lay động không gian. Đó là lúc cho vị thần Buồn Rầu khiêu vũ… Ma thuật của Buồn Rầu đáng sợ lắm, thần đã khiến biết bao nhiêu người chìm đắm không thể nghe thấy bất cứ tiếng thì thầm nào khác, thậm chí đến mức họ không thể chịu đựng thêm nữa, chỉ có thể tìm đến với cái chết để trốn chạy. Thật buồn cười, thế mà nhiều kẻ ngốc vẫn nghĩ rằng con người không được lựa chọn lúc họ sinh ra vậy thì họ sẽ tự lựa chọn cái chết như một sự khẳng định. Họ biết đâu họ bị xô đẩy bởi một thế lực vô hình. Lần này thì… vị thần Buồn Rầu trông lại càng buồn rầu hơn bởi chàng vẫn đủ tỉnh táo để thốt lên:

  • Kỹ thuật của tay violon này thật là điêu luyện. Nhưng nghe chỉ thấy độc một nỗi buồn, thật là nhàm chán…

Vị thần Tức Giận cắt ngang, xông vào một cách vô duyên. Vô ích thôi, Tức Giận phải có duyên cớ. Chàng giận cái gì đây khi chẳng có một cảm xúc nào có thể động được đến chàng. Các vị thần Phấn Khích, Vui Vẻ cũng đua nhau kích động chàng nhưng chàng chẳng buồn nhếch mép bởi có lẽ tâm hồn chàng đang tan lẫn giữa tiếng mưa rơi miên man, bất tận.

Vị nữ thần không tên nãy giờ đứng quan sát tất cả và nàng thấy một điều gì đó lạ lắm đang chuyển biến bên trong nàng. Sự lay động trong hơi thở của chàng khiến nàng bị rung lắc nhẹ nhàng tựa một bản nhạc êm đềm. Hơi thở nàng như một thỏi nam châm hút nàng lại gần. Khác hẳn với mọi lần nàng chỉ đứng xa và giương to đôi mắt ra nhìn thì giờ đây nàng chẳng nhìn thấy bất cứ điều gì nữa. Và lúc này, các vị thần khác lại trở thành những kẻ ngoài cuộc vô dụng.

Trời tạnh mưa dần, chàng nhổm người dậy đứng ra cửa sổ. Bên ngoài con người bắt đầu nhào ra ngoài đường như một lũ điên cuồng, chàng lắc đầu ngồi phịch xuống giường. Và cơn độc thoại bắt đầu:

  • Ôi loài người… loài người… Họ thật dễ bị lôi kéo bởi mọi thứ của thế giới này. Sao ta chẳng thể giống họ? Sao họ chẳng thể giống ta? Khi ta vội vã thì họ lờ đờ như những con sên chậm chạp, khi ta bình lặng thì họ lại như bị thú dữ đuổi sát sau lưng. Đôi khi ta tự hỏi không biết mình có thực sự thuộc về thế giới này hay không nữa?…

Đoạn độc thoại khiến nữ thần tựa như chẳng thể kìm giữ được lời nói của mình nữa. Nhưng lời nhắc nhở của các anh chị em khiến nàng ngưng lại. Nếu lên tiếng, nàng sẽ không còn là một vị thần nữa, nàng sẽ chỉ là con người trần thế… Ôi mà nào có sao… Đằng nào nàng cũng có thuộc về thế giới của các vị thần đâu. Ở đó nàng là một kẻ vô dụng, một kẻ lạc loài.

  • Việc chàng thuộc về loài người hay không quan trọng đến thế sao?

Nàng đột ngột đáp trả! Tất cả các vị thần không kịp ngăn lại, chỉ có thể thốt lên những tiếng kêu vô vọng.

 

Chàng trai giật mình quay lại đằng sau bởi giọng nữ thánh thót hoàn toàn xa lạ. Ôi chao, chàng ngây ngất bởi đôi mắt mơ hồ của nàng. Đôi mắt ấy dường như đang dõi đến một chân trời nào đó rất xa, nhưng tiếc thay làm gì có một đường chân trời đích thực, chỉ hoàn toàn là ảo giác. Từng bước, từng bước chàng tiến lại gần và đôi mắt vẫn không rời đôi mắt. Chàng nghe thấy tiếng thở phập phồng luân chuyển trong từng mạch máu của nàng.

Và trong giây phút ấy, nàng bắt đầu nhận ra trái tim của mình đang đập. Một sự si mê tràn ngập cơ thể nàng, một cảm giác ấm áp bao vây lấy không gian xung quanh nàng và một giai điệu  thần diệu đang tràn ngập tâm trí nàng. Nàng biết rằng giờ đây nàng chỉ là một con rối, nhưng nàng chấp nhận để bị giật dây bởi cảm giác này thật tuyệt vời biết bao nhiêu…

Bên ngoài căn phòng, thế giới vẫn xoay vần… Trong căn phòng, hai kẻ cô đơn trong thế giới của mình bỗng nhiên gặp được nhau. Chàng trai trẻ bỗng nhiên có một sự phấn khích và hăng hái lạ kì bởi nàng là người duy nhất có thể mỉm cười với những ý tưởng điên rồ của chàng.

  • Chàng sinh ra đã là một kẻ khác biệt đến vậy, thế thì cứ tiếp tục làm những gì khác biệt hơn nữa đi! Điên rồ thì đã sao! Vô ích thì đã sao! Chàng thích là được mà…

Nàng đương nhiên sẽ khuyên chàng như vậy rồi! Bởi nàng đã làm một việc điên rồ là rời bỏ thế giới thần kỳ và huyền bí của mình để được ở bên chàng. Vậy thì có điều điên rồ nào nàng không thể chấp nhận được nữa đây.

Nhưng nàng đã mắc một sai lầm nghiêm trọng. Bởi khi cơn phấn khích đã được kích hoạt, bỗng nhiên chàng say sưa thế giới này một cách lạ kỳ. Chàng bắt đầu đi ra ngoài và thấy mọi thứ bỗng nhiên thật đẹp đẽ: Một cơn mưa, một tia nắng, một cuộc tranh đua của sinh tồn, một lần say sưa trong mộng ảo… thậm chí vàng, bạc, châu báu, những phát minh của con người cũng kích động chàng.

Những lời khích lệ của nàng không còn cần thiết nữa! Chàng đã đủ điên rồ rồi! Điên rồ tới mức những kẻ ngày xưa xa lánh chàng giờ đây quay sang ngưỡng mộ chàng như thần tượng. Nỗi cô đơn trở thành một thứ thừa thãi. Chàng sợ cả cái cảm giác vắng lặng trong căn gác xép nhỏ năm nào, chàng đưa nàng về một lâu đài với biết bao gia nhân phục vụ và bao khách khứa sẵn sàng góp vui để nhìn thấy nụ cười của nàng. Nụ cười của nàng dễ khiến người ta cảm giác thấy sự đồng cảm. Nhưng đó là điều xa xỉ bởi càng ngày nàng càng ít cười hơn. Có lẽ thế giới này cũng đủ sự điên rồ rồi. Còn có gì đáng để mỉm cười nữa đâu?

Nàng ít cười hơn, khách khứa cũng dần xa lánh, và chàng thì lại cần có họ biết bao. Những người khách và chàng liên tục cần các cuộc phiêu lưu để thấy rằng mình có một ý nghĩa nào đó trong thế giới này. Và lúc này vị thần Buồn Rầu tìm đến khuấy đảo nàng. Trái tim yếu đuối của nàng làm sao có thể chịu đựng nổi nỗi buồn nhức nhối và xoáy sâu như vết kim đâm. Hình ảnh của những người tìm đến cái chết bỗng xuất hiện trong ký ức nàng. Phải rồi! Phải rồi! Chỉ có cái chết mới cứu nàng thoát ra khỏi nỗi buồn. Nàng lao mình khỏi ô cửa sổ của tòa lâu đài cao ngất giữa đêm mưa.

Mặt đất đây rồi và trên kia bầu trời cứ xa dần, khung cửa sổ cứ mờ dần… Mỉa mai thay, nàng vốn dĩ là một vị thần bất tử thì làm sao có thể chết. Ôi nỗi buồn quỷ quái tan theo mây gió. Và giờ đây trong lòng nàng tràn ngập một nỗi mênh mang. Nàng cũng không hề thuộc về thế giới của chàng. Nàng là ai? Nàng thuộc về đâu? Đến bây giờ nàng cũng không hề có nổi một cái tên… Bất tử trong trạng thái này thật là một điều đau khổ. Ôi giờ thì nàng trở thành con rối trong tay vị thần Đau Khổ. Những khuôn mặt thích thú của anh chị em nàng khiến nàng rùng mình sợ hãi. Đúng là nàng không hề thuộc về thế giới của họ rồi, bởi nếu có thì họ đã thương cảm mà không chơi đùa với số phận của nàng như vậy!

  • Con xin đấng Tạo Hóa hãy cho con được xuống Địa Ngục… Có lẽ Địa Ngục là chỗ duy nhất còn lại mà con thuộc về.

Đất trời rung chuyển, nàng rơi tõm vào hư vô. Đấng Tạo Hóa đã nghe thấy lời nguyện cầu của nàng. Khi mở mắt tỉnh dậy, ôi chao, một không gian vô định hình toàn màu đen. Nàng cất tiếng gọi… nàng còn chẳng nghe thấy tiếng nàng. Có vẻ như ở đây chẳng có ai cả vì thế mà giọng nói của nàng trở nên không cần thiết. Nhưng nếu tất cả đều là màu đen thì đôi mắt của nàng còn có ý nghĩa gì? Nàng ngẩng đầu lên để tìm chút ánh sáng (có lẽ vậy mà đôi mắt vẫn tồn tại). Trên kia có người, ra thế. Nàng nhìn thấy những bước chân của con người đang đi lại giữa mênh mông. Từ bên dưới, nàng có thể nhận ra đôi chân của người đang chán nản, đôi chân của người đang vui đời. Nàng cố rướn người với lên thật cao nhưng cõi người ấy cứ xa mãi… Nàng lại gồng hết sức hét thật to nhưng ai là người có thể nghe thấy tiếng vọng từ một nới sâu thẳm như Địa Ngục cơ chứ?

Nàng chợt sững người lại. Bước chân của chàng, không thể lẫn vào đâu được. Chàng đang leo lên một núi đá. Và kìa chàng đã tới đỉnh. Từ dưới này nàng có thể nhìn thấy nụ cười nở trên môi chàng khi chàng cúi xuống nhìn thế giới không hạn định ở phía dưới. Trông chàng thật yêu đời biết bao. Nàng ngồi nhẹ xuống, ôm chặt lấy hai gối và mắt vẫn ngước nhìn lên. “Chỉ cần chàng yêu đời là được và chàng hãy quên ta đi… Thế giới con người nên quên ta đi… Ta là thứ con người sợ hãi nhất và vì thế ta không có lý do gì đáng để tồn tại. Ta có thể đồng cảm với sự cô đơn của họ, nhưng khi họ không còn cô đơn nữa thì họ sẽ trốn chạy ta. Trốn chạy cũng phải thôi, chính ta còn sợ bản thân mình cơ mà… Ôi, đến giờ ta mới biết mình có tên là Cô Đơn…”

(8/2012)

Hà Thủy Nguyên

Trích từ tập truyện ngắn “Bên kia cánh cửa”

Home 2017 / page 12

“Dead Poets Society” – Thi ca, tự do và niềm đam mê

Tôi xem “Dead Poets Society” (Tên Việt: “Cộng đồng những nhà thơ chết”, “Hội thi nhân quá cố”, “Cộng đồng thi sĩ quá cố”) cách đây 5 năm. Lúc ấy, tôi đã chán nản với văn chương, bởi nghĩ thầm “Thời nay ai mà đọc văn chương” nữa và nghĩ rằng có lẽ mình nên chấm dứt con đường ấy của mình. Thế nhưng,  tình cờ, bật TV lên trong một ngày  nhạt nhẽo, tôi đã gặp bộ phim này với gương mặt của người diễn viên tôi yêu thích – Robins William. Bộ phim tạo ra một không gian văn chương mà ở đó nhân vật chính là thầy dậy văn chương Anh John Keating và những cậu học trò trẻ tuổi. Bằng một tình yêu văn chương say đắm của mình, thầy Keating đã đánh thức khả năng cảm nhận văn chương, sự say mê cuộc đời và tinh thần tự do ở những chàng trai trẻ.

Ấn tượng đầu tiên khi nhìn những chàng trai trẻ trong phim đó là vẻ ngoài ngây thơ, ngơ ngác mà ẩn chứa một lòng khao khát, tò mò đến mức hồi hộp. Trong đầu tôi lập tức bật lên mấy câu thơ của Huy Cận:

“Chân non dại ngập ngừng từng bước nhe

Tim run run trăm tình cảm rụt rè

Tuổi mười lăm gấp sách lại, lắng nghe

Lòng mới mở giữa tay đời ấm áp”

(“Tựu trường”)

Những gương mặt ấy, mở đầu phim, phải tỏ ra nghiêm túc để nghe về những điều luật của trường học, phải ngoan ngoãn một cách chán nản để theo học tiếng Latin, Toán học, Hóa học… Những chàng trai trẻ ấy khi vì ký túc xá dù vui vẻ với nhau những cũng thu lại mỗi người một góc riêng, kìm hãm giấc mơ của mình để vừa lòng bố mẹ. Giữa những chuỗi ngày ấy, thầy Keating đã xuất hiện với một chân dung khác hẳn. Keating khiến cho tất cả những người học trò ấy đều cảm thấy kỳ quặc vì thầy vừa đi vừa huýt sáo, thầy bắt học trò gọi mình là “O Captain! My Captain” (Tên một bài thơ của Walt Whitman). Hơn thế nữa, Keating ngay từ buổi đầu tiên đã truyền cảm hứng cho những học trò của mình một thông điệp: “Carpe, carpe diem, seize the day boys, make your lives extraordinary.” (“Carpe, Carpe diem, nắm bắt từng ngày hỡi các chàng trai, hãy biến cuộc đời của các em trở nên phi thường)

Đỉnh điểm của sự kỳ quặc, đó là khi Keating gọi đống lý thuyết văn chương sử dụng để đo đạc “độ hay của tác phẩm” được viết trong sách giáo khoa là “bullshit” giữa lớp và bắt học sinh phải xé tan nát chúng. Tất cả các học sinh đều vô cùng ngỡ ngàng, sợ hãi xen lẫn thích thú. Xem chừng, cái cảm giác muốn đập tan mọi khuôn khổ của trường học đều nằm sâu bên trong các chàng trai trẻ. Không chỉ có vậy, thầy Keating thúc đẩy tính cá nhân và sự tự do của những cậu trai trẻ bằng việc cho họ tập đi tự do. Đi tự do theo cách của mình, kể cả đó là cách ngớ ngẩn, chính là một trong những phương pháp để đập phá khuôn khổ vốn dĩ đã được cài đặt vào não trạng của học sinh bằng thói quen xếp hàng. Đến đây, tôi lại nhớ đến video clip “Another brick in the wall” của Pink Floyd. Trong clip ấy, những em bé học sinh phải đi theo hàng, bước đều bước trên một cỗ máy. Keating còn khuyến khích học trò của mình trèo lên bàn để nhắc nhở học trò rằng cần phải nhìn thế giới theo nhiều cách khác nhau. Đó chính là khởi nguồn của sự bất tuân. Phải chăng, chỉ những con người bất tuân mới có thể cảm nhận được văn chương và thi ca.

Trong không khí kỳ quặc đến phi thường ấy, khi những cậu học sinh đã được trải nghiệm cảm giác thoải mái, tự do, đó là lúc Keating nói về thi ca. Ông không đọc văn chương bằng thứ giọng chán ngắt mà biến tấu giọng dựa trên nhịp điệu cảm xúc của tác phẩm. Ông để những đứa trẻ vừa đá bóng, vừa nghe giao hưởng, vừa đọc thơ. Ông ngấm ngầm chuyển cho học trò cuốn sách ghi chép lại những vần thơ hay của William Shakespeares, Henry David Thoreau, Walt Whitman, Paoblo Neruda… Vậy là những chàng trai trẻ cứ đêm đêm đến một hang động, đọc thơ và thổi saxophone cho nhau nghe bên ngọn lửa. Có lẽ, đây là những giây phút vui vẻ nhất, say đắm nhất, tự do nhất của những chàng trai. Và lẽ đương, một khi đã quen với say đắm, với tự do, làm sao có thể chấp nhận được những khuôn khổ ngớ ngẩn và chán ngắt.

Những chàng trai “tim non dại” ấy đã nổi loạn. Không phải biểu tình đập phá. Sự nổi loạn đơn giản chỉ là sống hết mình. Khi một chàng trai dám đi theo giấc mơ diễn kịch của mình chứ không muốn làm kỹ sư, bác sĩ, đó là nổi loạn. Khi một chàng trai dám vượt qua mọi khó khăn cản trở để đến với người mình yêu, đó là nổi loạn. Khi một chàng trai dám cất lên tiếng dữ dội từ sâu thẳm bên trong mình, đó chính là nổi loạn. Đúng như lời giảng của thầy Keating: “Các chàng trai, các em phải cố gắng tìm kiếm tiếng nói riêng của mình. Bởi vì còn chờ gì nữa mà không bắt đầu, không thể chắc chắn rằng sau này các em còn có thể tìm thấy. Như Thoreau nói: “Hầu hết những người đàn ông đều sống trong sự yên tĩnh đến tuyệt vọng” Đừng chần chừ nữa! Hãy phá tung!”

Qua bộ phim, chúng ta có thể tìm thấy cho mình câu trả lời về mục đích thật sự của văn chương, mà thi ca là một phần trong đó. “Chúng ta không đọc thơ viết thơ vì nó dễ thương. Chúng ta đọc thơ và viết thơ bởi vì chúng ta là thành viên của loài người. Và loài người được lấp đầy bởi đam mê. Và Y học, Pháp luật, Kinh doanh, Kỹ thuật đều là những đeo đuổi cần thiết để duy trì sự sống. Nhưng thơ ca, vẻ đẹp, tình yêu, đó là những gì xứng đáng để  ta sống vì chúng. Một trích dẫn từ Whitman: “Ồ tôi, ồ cuộc sống!… trong những câu hỏi lặp đi lặp lại, của đoàn tàu vô tận không có niềm tin… của những thành phố đầy những kẻ ngốc, có gì tốt đẹp ở đây. Ồ tôi, ồ cuộc sống?” Đó chính là câu trả lời. Giờ thì các em đang ở đây, cuộc sống luôn tồn tại và có bản sắc riêng, hãy mạnh mẽ lên và các em sẽ góp vào đó câu thơ của mình. Thế đó, mạnh mẽ lên và góp vào câu thơ của mình. Câu thơ đó sẽ là gì?” Mục đích cao nhất của văn chương, theo những gì thầy Keating dậy, không phải sự cứu rỗi, mà là thúc đẩy. Không phải ve vuốt sự nhân văn giả dối mà mở rộng các phạm vi của nhân tính, chắp thêm đôi cánh cho con người để bay tới tự do. Và bởi thế, các thế lực muốn kiểm soát xã hội không bao giờ muốn văn chương được cất lên tiếng nói của mình. Giáo hội Công giáo đã từng coi văn chương và nhiều ngành nghệ thuật khác là quỷ dữ cần bị bài trừ. Cách mạng văn hóa Trung Quốc đã tiêu diệt văn chương bằng bần cùng hóa và tra tấn tinh thần. Vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm và Xét lại ở Việt Nam đã đẩy văn chương đích thực vào tù ngục, bị cô lập và tẩy chay. Đến nay, văn chương tưởng như đã an toàn. Không, truyền thông đã đẩy văn chương vào một xó, rẻ rúng nó, làm nó biến chất thành một thứ quái vật. Nhưng không, văn chương vẫn cứ là văn chương. Và truyền thông lại ca ngợi những thứ mạo nhận văn chương.

Tác giả kịch bản của bộ phim “Dead Poets Society” hẳn phải thấm thía thân phận của văn chương một cách sâu sắc. Sau tất cả những giây phút đam mê nhất, đẹp đẽ nhất, là cái chết của một chàng trai trẻ đã dám nổi loạn đi theo tiếng gọi của nghệ thuật. Cậu chết bởi cảm thấy rằng cuộc đời này sẽ không cho phép cậu được cất lên tiếng nói bay bổng của riêng mình. Rằng cuộc đời này sẽ trói buộc cậu trong trật tự xã hội. Và một con người, nếu không thể là chính mình thì còn sống làm gì nữa!

Còn Keating, người thầy say mê với văn chương ấy bị đuổi khỏi trường học. Lần gặp mặt cuối cùng của Keating với những người học trò của mình, ông bước đi trong buồn bã. Nhưng rồi, tiếng gọi “O captain my captain” vang lên. Những người học trò của ông đã đứng lên bàn, như một lời chào từ biệt, như một lời hứa hẹn rằng: Chúng em sẽ không quên những điều này! Chúng em sẽ nhìn thế giới theo nhiều cách khác nhau! Chúng em sẽ không cúi đầu! Chúng em sẽ có một cuộc sống phi thường!

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 12

Cái bi và cảm hứng sử thi trong phim ảnh đại chúng đương đại

Thế kỷ 19 và 20, nhân loại liên tiếp ở trong những cuộc chuyển dịch về tâm thức. Bước ra khỏi thời kỳ Trung cổ, được truyền cảm hứng nhân bản từ các nhà Khai Sáng, con người hướng tới các giá trị bình đẳng. Từ đó, thân phận của những người cùng khổ, những tầng lớp thấp, các bi kịch cá nhân trong đời sống bình thường bắt đầu trở thành đề tài của các tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là trong văn học và sân khấu kịch. Phim ảnh xuất hiện sau rất lâu, chỉ xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, nhưng đã nhanh chóng bắt nhịp vào sự chuyển dịch. Thậm chí, so với văn học và sân khấu, phim ảnh còn dễ dàng hơn để truyền tải đời sống thực của con người hiện đại.

Cái Bi xuất phát từ các Bi Kịch cổ đại từ Hy Lạp, biểu hiện trong các tác phẩm văn học, và đến bây giờ thực sự nở rộ trên phim ảnh. Nếu cái Bi trên sân khấu kịch và các tác phẩm sử thi của Hy Lạp – La Mã  hướng tới giá trị thần thánh, thiêng liêng và phẩm chất anh hùng phi thường thì trong thế kỷ 20, cái Bi hướng tới những giá trị cá nhân hơn: Những cuộc đấu tranh của các cá nhân nhỏ nhoi để đạt được điều mình muốn trong một đời sống tầm thường. Điều này biểu rõ nét trong các tác phẩm phim câm của Charlie Chaplin như “A woman of Paris” hay “The gold rush”… Phim có tiếng ra đời sau đó, nhanh chóng được đại chúng ưa thích, hầu hết các phim đều xoay quanh số phận các con người đô thị. Đến chiến tranh thế giới thứ 2, bi kịch của con người trong cuộc chiến đã trở thành chủ đề chính của cả văn học, sân khấu kịch và đặc biệt là phim ảnh. Sự phát triển của công nghệ đã cho phép các thước phim ngày càng sống động hơn với kỹ xảo tốt hơn, thừa kế từ các công nghệ chiến tranh. Có thể nói, cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, mang lại đau khổ cho nhân loại, nhưng nỗi đau đó đã nuôi dưỡng phim ảnh phát triển một cách đột phá. Bi kịch phát triển một cách tự nhiên từ đời sống, đi lên màn ảnh, và màn ảnh truyền tải cái Bi ấy đến đại chúng như một thứ cảm xúc lây lan. Ở mỗi thời đại, cái Bi lại mang một màu sắc khác nhau, và vì vậy, cái Bi của thế kỷ 20 đó là nỗi đau của những con người phải vật lộn trong đời sống, tạo cho người xem sự thương cảm, cho dù khoác chiếc áo hiện thực hay lãng mạn.

Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, tính chất bi hùng của sử thi lại được thức dậy, nhưng không phải là các vị thần hay bán thần thời cổ đại, mà là những người bình thường nhưng đạt được tầm vóc siêu nhân và phi thường. Tính phi thường này đặc biệt được nước Mỹ đẩy cao sau chiến tranh thế giới thứ 2. Lý giải cho hiện tượng này, có thể là lý do truyền thông về một nước Mỹ hùng cường, thực hiện những điều không tưởng vượt quá sức tưởng tượng của con người, một nước Mỹ anh hùng cứu nhân loại như những Siêu Nhân, Người Nhện, Người Dơi… Song song với Mỹ trong thời kỳ đó, sau chiến tranh thế giới thứ 2, ở Trung Quốc và Hongkong, phim võ hiệp lên ngôi, cố tạo ra hình mẫu anh hùng trí dũng, nhân nghĩa, không màng danh lợi.  Với hai mô típ hình mẫu ấy, phim ảnh đại chúng của Mỹ và Trung Quốc đã thống trị thế giới trong những năm cuối thế kỷ 20 đã chiếm lĩnh văn hóa đại chúng thế giới bằng sự phi thường. Cảm hứng sử thi một lần nữa được tái sinh trên màn ảnh bằng một không khí hoàn toàn khác: hư ảo hơn và vĩ mô hơn, trong

Cảm hứng siêu anh hùng trong phim ảnh Mỹ

Năm 1961, hãng Marvel cho ra đời bộ truyện Fantastic Four, và sau đó là một loạt các truyện như X-men, Siêu nhân, Người Nhện… đã làm mưa làm gió thị trường truyện tranh, rồi được chuyển thể thành phim. Hình mẫu nhân vật anh hùng trong các bộ phim này đều là những người bị đột biến gen do một tai nạn nào đó. Đột biến gen mang đến cho họ các năng lực kỳ diệu và họ sử dụng năng lực ấy để bảo vệ con người. Đây là con đường tất nhiên phải trải qua của hầu hết các anh hùng trong truyện Marvel xuất bản. Với số phận đặc biệt đó, bi kịch của các siêu anh hùng này đều phản ánh tâm thức chung của thế giới phương Tây.

Trước hết, đó là bi kịch của kẻ dị biệt. Năm 1950 – 1960, sau chiến tranh thế giới, người phương Tây nhận thức sâu sắc sự ngu xuẩn của đám đông mệnh danh chính nghĩa, mệnh danh lòng yêu nước. Con người phương Tây bắt đầu đi tìm bản thể của chính mình, chịu ảnh hưởng của Chủ nghĩa hiện sinh và các trào lưu tôn giáo mới được các nhà huyền môn như Krishnamurti, Osho… rao giảng. Phong trào Hippi là biểu hiện cho sự trỗi dậy của cái tôi cá nhân, không phải thứ cá nhân tầm thường, mà là thứ cá nhân dị biệt với lòng tin vào sự không giới hạn của con người. Con người cá nhân này tách khỏi đám đông, vượt trội khỏi đám đông, nhưng phần nào đó lại cảm thấy lạc lõng khi phải đi một mình và bị đám đông coi như các con bệnh của thời đại. Với tâm trạng dị biệt này, các tác giả của Marvel hẳn cũng bị ảnh hưởng của các phong trào cùng thời bấy giờ như Beat Generation, New Age, Hippi…

Cái bi của kẻ lạc lõng và khác biệt là điểm đặc biệt so với các tấn bi kịch Cổ đại, Cổ điển và các vở kịch hiện thực. Sự lạc lõng này không đến từ việc kém cỏi, mà đến từ việc mạnh mẽ và vượt trội hơn đám đông. Nếu ở thời cổ đại, các anh hùng rất đắc ý với các khả năng siêu nhiên của mình thì các siêu anh hùng cuối thế kỷ 20 lại có vẻ sợ hãi với các siêu năng lực. Đám đông trong các phim siêu anh hùng của Marvel đều gợi cho người xem thấy những con người ngu xuẩn, sợ hãi và tàn nhẫn với các cá nhân dị biệt.

Yếu tố dẫn đến sự dị biệt này thường đến từ nguyên nhân đột biến: có thể là do đột biến gen như trong Fantastic Four, Người Nhện, Hulk, Captain American; hay do xuất thân từ hành tinh khác như Thor hoặc Superman, hoặc có được nhờ công nghệ và kỹ năng chiến đấu cao như Người Dơi hoặc “Iron man”…  Cảm hứng chủ đạo dẫn tới việc xây dựng các nguyên mẫu anh hùng này đến từ sự phát triển vượt bậc về công nghệ của phương Tây và các khám phá khoa học về Vật lý lượng tử, Vũ trụ toàn ảnh, Hố đen… lúc bấy giờ.

Loại bi kịch thứ hai mà các siêu anh hùng phải đối mặt không phải là các cuộc chiến đẫm máu, mà là cuộc chiến với bản thân mình. Những cuộc chiến đẫm máu với kỹ xảo hoành tráng dường như chỉ làm nền cho cuộc đấu tranh nội tâm khi mình đánh nhau với chính mình – thứ đấu tranh điển hình của thế giới Hậu hiện đại. Nếu bi kịch của sự dị biệt nhanh chóng được các siêu anh hùng vượt qua khi ra tay cứu thế giới thì cơn giằng xé của các phần khác biệt trong một con người dai dẳng và là bàn đạp cho mọi cao trào trong cốt truyện.

Bi kịch khi chiến đấu với chính mình thể hiện rõ trong các phim mà nhân vật phải sống với các nhân cách khác nhau, tưởng như là đối lập. Người Nhện, một nhân cách đeo mặt nạ cứu thế giới, một nhân cách là anh chàng chụp ảnh nhút nhát luôn thua kém mọi người. Giận dữ đã tạo ra mâu thuẫn sâu sắc giữa hai nhân cách này của Người Nhện, tạo điều kiện cho thứ chất nhờn đen biến Người Nhện thành kẻ ác. Và khi anh quyết định đứng lên đấu tranh với chính mình trong không gian của tiếng leng keng của các thanh sắt chạm nhau, tựa như tiếng chuông nhà thờ, phần ác đã bị đẩy bật khỏi Người Nhện. Một cuộc chiến khác cũng gay go không kém, đó là cuộc chiến của Hulk, một phần là nhà khoa học nổi tiếng đầy lý trí và khôn ngoan, một phần là người da xanh hung dữ như Titan hoàn toàn là thú tính và bản năng. Đây là cuộc chiến điển hình của Apollo và Dionysus. Nếu phần Apollo trong Hulk muốn chấm dứt câu chuyện thì phần Dionysus lại khiến bản năng Titan thức dậy và đập phá. Yếu tố thức đẩy bản năng này cũng đến từ sự giận dữ. Nói một cách khác, giận dữ đã khiến các anh hùng vượt trên cả sự phi thường để đến với sự hùng vĩ cổ đại, thứ mà các vị thần Hy Lạp phải nhốt dưới địa ngục Tartar.

Trong các phim về bi kịch anh hùng, tình yêu nam nữ rất mờ nhạt. Các nhân vật nữ xuất hiện chỉ cho có, không gây lại bất cứ ấn tượng sâu sắc nào về tình yêu. Họ thường đóng vai trò mỹ nhân gặp nạn để các anh hùng phô diễn kỹ năng chiến đấu, hoặc đóng vai trợ lý đắc lực, nhưng không anh hùng nào dở sống dở chết về người tình giống như trong phim võ hiệp ở phương Đông cả. Không rõ các tác giả xây dựng hình mẫu anh hùng như vậy là để ẩn dụ cho bản tính tự yêu bản thân của anh hùng hay chỉ đơn thuần tạo ra các chàng trai cơ bắp trong bộ quần áo bó sát người với tình yêu không quá lý tưởng để kích thích giấc mơ của các cô gái tuổi mới lớn?

Đỉnh cao cái bi của các siêu anh hùng đó là khi các siêu anh hùng nhận ra rằng họ gây tai họa cho thế giới nhiều hơn cứu thế giới. Cái bi này thể hiện rõ nhất trong bộ truyện tranh và phim “Watchmen”. Các siêu anh hùng trong phim trở thành các công cụ cho chính trị để thiết lập quyền lực. Dr Manhattan, Rorschach, Comedian là người thấm thía nhất bi kịch này. Đây là nỗi đau của những kẻ vỡ mộng khi nhận ra rằng mình chỉ là con rối và ý thức được những sợi dây. Lựa chọn của họ đặt ra đó là: tiếp tục cứu thế giới như một công cụ hay đi tìm một thứ ý nghĩa khác. Nhưng vì không thể tìm ý nghĩa khác, hầu như trong số họ chấp nhận số phận công cụ, chỉ có Rorschach vẫn tiếp tục bảo vệ sự thật, và Adrian Veidt trở thành một kẻ thống trị, một siêu ác nhân. Đáng tiếc là chỉ có siêu ác nhân này mới có thể tiếp tục duy trì thế giới. “Watchmen” đánh dấu sự đảo lộn của các giá trị mà các siêu anh hùng vẫn tôn thờ, đồng nghĩa với nó là sự đảo lộn các giá trị mà phương Tây vẫn tôn thờ, sự bóc trần tham vọng cứu thế giới mà thực ra là chiếm thế giới cảu Mỹ.

 

Vẻ đẹp của siêu ác trong phim ảnh Mỹ

Bi kịch của các nhân vật ác tính được truyền cảm hứng từ các tiểu thuyết như “Dracula”, “Frankeinstein” hay truyền thuyết về người sói. Từ khi có phim ảnh, các nhân vật ác này được đưa lên để thu hút đại chúng, nhưng rồi chính các nhà làm phim đã tạo ra các chuẩn mực mới cho cái ác. Không phải chỉ là cái ác trong các nhân vật phản diện truyền thống, cái ác trong phim ngày nay đã chạm tới sự siêu vượt.

Siêu ác không được định lượng bằng số lượng người chết hay các biện pháp tra tấn dã man, mà thường nhuốm màu sắc bi thương. Các nhân vật ác thường ẩn chứa trong mình một bi kịch cá nhân bi thương, thúc đẩy cơn điên loạn bên trong. Cái ác không đơn thuần chỉ là thú tính hay mưu kế hại người, cái ác được nâng tầm thành một loại triết lý, một lối sống.

Siêu ác nổi tiếng, gây ấn tượng sâu đậm tới người xem phải kể đến Joker trong “Batman”. Joker được truyền cảm hứng từ tiểu thuyết “The man who laughs” của Victor Hugo. Joker là kẻ có bộ mặt hề luôn luôn cười. Trong phim “The dark knight” đã lược đi bài hát của Joker, nhưng ở bộ phim “Batman” năm 1989 có nhắc đến:

“Ta chỉ cười ở bên ngoài

Nụ cười của ta ngay dưới lớp da này

Ngươi sẽ thấy ta đang khóc

Ngươi có thể cùng ta khóc ròng”

Bên ngoài cười vĩnh viễn, bên trong khóc vĩnh viễn. Cái ác nảy sinh từ việc thấu tận cùng nỗi đau. Trong nỗi đau, con người sẽ mất nhân tính. Joker đã làm thử nghiệm cái ác của mình với các phi vụ giết người. Hắn khủng bố, nổ bom, không phải vì tiền hay muốn thống trị thế giới, hắn muốn nhìn thấy con người đối mặt với sự phi nhân tính của mình, hắn muốn con người ở trong nỗi đau tận cùng. Ẩn sâu trong siêu ác là tột cùng của cái bi.

So với Batman và Harvey Dent,  Joker luôn hài hước. Chỉ khi ở tận cùng dưới đáy của cái bi, người ta mới có thể nhìn toàn cảnh về lẽ phải trái, đúng sai, thiện ác ở đời, và chỉ lúc ấy mới thể cười trong đau đớn. Sự hài hước thâm sâu xuất phát từ nỗi đau, là biểu hiện một phần của tính siêu ác. Nếu các bạn không chấp nhận được điều này, hãy thử nhìn lại nhân vật Harvey Dent. Harvey Dent vốn là “Hiệp sĩ trắng”, chuyên tiêu diệt kẻ ác nhân danh chính nghĩa. Nhưng khi ở tột đỉnh nỗi đau, Harvey Dent đã thành “Người hai mặt” và thực hiện kế hoạch trả thù, lúc này, hắn đã bắt đầu biết hài hước.

Cùng với ý tưởng này, cái siêu ác đã vượt trên các ranh giới của xã hội. Những biểu tượng một thời của cái ác như phù thủy, ma cà rồng, ma sói xuất hiện trên màn ảnh với tấn bi kịch của chính mình. Với tấm bi kịch này, họ đã giận dữ reo rắc nỗi sợ cho con người. Cụ thể hơn, con người chỉ là sự giải tỏa cho nỗi đau này. Trong thế kỷ 21, sự nổi lên của các hình mẫu nhân vật quỷ dữ chiếm một thị phần quan trọng trên màn ảnh. Tuy nhiên, càng gần đây, tính chất siêu ác càng bị sụt giảm, mà thay vào đó là những mối tình lãng mạn của các nhân vật quỷ dữ.

Cái bi của Á Đông qua truyện và phim kiếm hiệp

Truyện kiếm hiệp kế thừa từ những tác phẩm chương hồi cổ điển Trung Hoa như “Thủy Hử”, “Chinh Đông chinh Tây”, “Thất hiệp ngũ nghĩa”… Các cây bút như Kim Dung, Cổ Long, Ngọa Long Sinh… một thời đã làm mưa làm gió trên các trang báo và thị trường xuất bản của Hongkong cũng như Trung Hoa đại lục. Tuy nhiên, trong số các nhà văn kiếm hiệp, chỉ Kim Dung và Cổ Long đưa ra các điển hình về nhân vật bi kịch, mà cho đến nay vẫn ảnh hưởng đến các tác phẩm cổ trang trên màn ảnh.

Người Việt Nam rất quen thuộc với Kim Dung, các tác phẩm của ông đầu tiên được đăng trên tờ Minh Báo của Hongkong. Các tác phẩm đậm chất bi thương sử thi của ông có thể kể đến “Thần điêu đại hiệp”, “Ỷ thiên đồ long ký”, “Tiếu ngạo giang hồ” và đặc biệt là “Thiên long bát bộ”. Các bi kịch này thường xoay quanh các vấn đề sau:

Thứ nhất, mâu thuẫn dễ nhận thấy nhất và cũng điển hình cho tâm lý của trí thức Trung Hoa, đó là lựa chọn giữa con người phận vị và con người cá nhân. Con người phận vị thường gánh vác trên vai nghĩa vụ với dân tộc Trung Hoa hoặc với gia đình, mà nghĩa vụ này lại hoàn toàn đối lập với những mong ước cá nhân. Kim Dung thường đưa ra các mối tình éo le để đẩy cao mâu thuẫn này: Một Trương Vô Kỵ thống lĩnh Minh giáo để tiêu diệt nhà Nguyên nhưng lại yêu quận chúa Mông Cổ Triệu Minh; một Lệnh Hồ Xung phải trừ gian diệt ác nhưng lại kết giao với bạn bè ở tà giáo và yêu Thánh Cô của Nhật Nguyệt thần giáo Nhậm Doanh Doanh… Không chỉ có các mối tình, Kim Dung cũng thường đặt các anh hùng của mình ở tình thế nhiều ngã rẽ về vấn đề dân tộc hoặc thiện ác. Trong “Thần Điêu đại hiệp”, Dương Qúa luôn phải lựa chọn giữa mối thù nhà, các âm mưu chính trị và mơ ước được cùng Tiểu Long Nữ phiêu du bốn bể. Trong “Thiên Long bát bộ”, Kiều Phong cũng bị đẩy vào tình thế vô thừa nhận về mặt chủng tộc, khi dòng máu là người Khất Đan nhưng tâm trí lại là người Hán. Kiều Phong đứng giữa hai chủng tộc, luôn cố hòa giải mâu thuẫn giữa hai tộc người này, nhưng ước mơ lớn nhất của chàng là được cùng A Châu sang bên kia Nhạn Môn Quan “săn chồn đuổi thỏ”. Trung Hoa với ảnh hưởng của Khổng giáo, tạo cho tâm thức của người Trung Hoa gắn liền với các nghĩa vụ Tam tòng tứ đức. Nhưng con người cá nhân luôn muốn vứt bỏ các khuôn khổ ấy, và từ đầu thế kỷ 20 đến nay, ước mơ ấy vẫn là cảm hứng chủ đạo trong các tác phẩm văn học Trung Hoa.

Thứ hai, bi kịch thật sự ám ảnh trong các tác phẩm của Kim Dung chính là tình yêu, đúng như Lý Mạc Sầu thốt lên: “Hỏi thế gian tình là gì mà khiến ta đau khổ”. Tình yêu có thể coi là khoảng không gian cá nhân yêu thích của người Trung Quốc, nơi mọi lý trí sụp đổ, mọi lễ giáo sụp đổ, mọi sự kiêu ngạo sụp đổ, và ngay cả sự cao đạo cũng sụp đổ. Bi kịch của tình yêu thường nảy sinh trong quá trình diễn ra sự sụp đổ này, khi mà nhân vật không thể chấp nhận được sự sụp đổ của mình. Lý Mạc Sầu sa vào cái ác do đau khổ vì tình, Chu Chỉ Nhược mất hết lý trí dẫn đến tẩu hỏa nhập ma, Du Thản Chi thân bại danh liệt vì chạy theo A Tử…

Hai loại bi kịch này đặc biệt ảnh hưởng ở các tác phẩm ngôn tình cổ trang sau này của Trung Hoa như “Hoa Thiên Cốt”, “Lang Nha Bảng”… Ngôn tình cổ trang có thể là kiếm hiệp hay tiên hiệp, đều đặc biệt xoáy sâu vào các bi kịch ái tình và mâu thuẫn giữa phận vị với tự do cá nhân. Những mâu thuẫn này dẫn đến những trạng thái đau khổ, dằn vặt trong từng cử chỉ và lời nói, tạo ra sự đối lập giữa mong muốn nội tâm của nhân vật và biểu hiện hành động bên ngoài. Sự đối lập này càng nhiều, nhân vật càng đau khổ. Dân ngôn tình vẫn gọi cách thức bi kịch này là “ngược luyến”.

Trái ngược với các tác phẩm của Kim Dung, Cổ Long không xây dựng cái bi qua tiến trình của câu truyện mà xây dựng các nhân vật đã ẩn chứa cái bi trong tính cách. Xét qua một loạt các nhân vật như Lý Tầm Hoan, Lưu Hương Đạo soái, Lục Tiểu Phụng, Hoa Mãn Lâu… Các nhân vật này thường rất dị biệt so với cõi giang hồ, thường chỉ mải vui mà rơi vào các âm mưu và thường không bị ràng buộc bởi con người phận vị. Những nhân vật vừa kể trên đều có đời sống ngao du giang hồ, bốn biển là nhà, kết giao hào kiệt khắp nơi. Bi kịch của họ thường xoay quanh sự phản bội, xoay quanh việc rơi vào vòng xoáy của các âm mưu tủn mủn. Ở trong bối cảnh này, bi kịch thường là sự lựa chọn giữa tình và lý. Tuy nhiên, Cổ Long thường cho nhân vật của mình chọn lý và cái tình sót lại khiến họ dằn vặt cả đời. Sự ngạo nghễ, phớt đời hay các thói xấu, chẳng qua chỉ là sự che lấp cho nỗi dằn vặt ấy mà thôi.

Cái bi trong truyện Cổ Long không bị ảnh hưởng nhiều không khí của Trung Hoa mà có nhiều màu sắc của Shakespeare trong “Hamlet”. Cổ Long không có được lượng fan đông đảo như Kim Dung, nhưng văn chương của ông là nét chấm phá về tính cách nhân vật độc đáo và kỳ dị hiếm thấy trong nền văn học và phim ảnh đại chúng ở đất nước này.

Tác phẩm cuối cùng của Kim Dung là một cú lật ngược mọi cái bi trong thế giới võ hiệp. Ông đã tạo ra nàng công chúa Kiến Ninh mắc chứng khổ dâm. Mỗi khi làm tình, nàng ta thích bị đánh đập, chửi rủa. Cái bi, với Kim Dung, suy cho cùng là một sự khổ dâm tinh thần, thứ khổ dâm mà Trung Hoa đắm đuối trong nó. Với tác phẩm “Lộc Đỉnh ký”, Kim Dung đã vượt trội hơn mọi tác giả võ hiệp cùng thời như Cổ Long, Ngọa Long Sinh, vì chỉ có ông mới dũng cảm đạp đổ mọi giá trị, mọi chuẩn mực mà thế giới võ hiệp tôn thờ.

Kết luận

Cái bi trong văn hóa đại chúng đương đại đa dạng các khía cạnh hơn rất nhiều so với cái bi trong các lớp văn hóa trước đó. Cái bi chính là biểu hiện cho các dạng mâu thuẫn của thời đại. Tìm hiểu về cái bi, ta có thể hiểu về mâu thuẫn trong từng thời đại, trong từng nền văn hóa. Cách thức xử lý và lựa chọn thoát khỏi bi kịch cho ta thấy xu hướng tư tưởng định hướng xã hội. Thế nhưng, hiện nay, những “happy ending” trong các tác phẩm phim ảnh đại chúng là một điều gì đó ngớ ngẩn và không thật. Những kết thúc không có hậu hoặc kết thúc bỏ lửng luôn tạo cho người xem cảm giác hợp lý hơn. Liệu rằng, có phải vì cuộc đời quá khắc nghiệt và mâu thuẫn quá khó để giải quyết, hay chỉ đơn giản là vì con người đã quen “khổ dâm” nên không thể có những lựa chọn sáng sủa hơn dẫn tới kết thúc có hậu hơn. Thôi thì đó là câu hỏi dành cho khán giả.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 12

Con đường viết của tôi (3): Sự “hay” muôn vẻ, chi bằng cứ đúng lòng mình

Các bạn click vào để đọc thêm:  “Con đường viết của tôi” 

“Hay” là một khái niệm rất chung chung. Đọc một áng văn tuyệt mỹ, anh bảo hay, tôi bảo dở, âu cũng là lẽ thường tình. Hay dở cũng như xấu đẹp, tùy vào trình độ cao thấp, và thói quen tư duy của người tiếp nhận. Bàn về lẽ hay dở, tôi đặc biệt tâm đắc với lời than của Hàn Phi Tử hơn hai ngàn năm về trước: “…lời nói thuận xuôi, trơn bóng, đẹp đẽ, văn vẻ thì bị xem là hoa mỹ mà không thật; lời nói thuần hậu, cung kính, cương trực, thận trọng thì bị xem  là vụng về mà không thứ tự; lời nói nhiều dẫn chứng, nhiều  tỉ dụ thì bị xem là trống rỗng mà vô dụng; lời nói tóm lược các điểm nhỏ và trình bày đại cương nên vắn tắt mà không tô điểm thì bị xem là giản tỉnh và không minh biện; lời nói thân mật và trúng tình người thì bị xem là tiếm mà không khiêm nhường; lời nói rộng rãi lớn lao, xa vời không lường thì bị xem là ngoa mà vô dụng; lời nói vụn vặt về chuyện trong nhà trong cửa, kể từ con số thì bị xem là thô lậu; lời nói gần đời mà giọng không bạo nghịch hì bị xem là tham sống mà siểm nịnh bề trên; lời nói xa thói tục, khác người thường thì bị xem là quái đản; lời nói mẫn tiệp, hùng biện có nhiều văn vẻ thì bị xem là không thật; lời nói không văn hoa chỉ trình việc thật thì bị xem là quê mùa, lời nói thường kể kinh Thi, kể phép tắc người xưa thì bị xem là lời kẻ tụng sách… Bởi vậy cho nên dụng cụ đo lường tuy trúng, cũng chưa chắc được theo, nghĩa lý tuy hoàn mỹ cũng chưa chắc được dùng…”. Viết hay đến mấy mà không tìm được người “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” với mình cũng kể như là tự mình thấy sướng cho bản thân mình mà thôi. Thế thì làm sao để viết “hay”, và lấy tiêu chuẩn gì làm thang đo cho cái sự “hay”?

Hay, có thể là do bài viết chạm tới vấn đề mà số đông quan tâm, dùng biện luận hoặc lối nói hài hước để thuyết phục. Hay, cũng có thể là chạm tới thẳm sâu trong tâm hồn người đọc. Hay, biết đâu lại nằm trong việc tạo ra sự mới lạ độc đáo mà người khác không thể bắt chước được. Hay với đại đa số đám đông chỉ là những trò múa máy câu chữ để thôi miên độc giả. Hay muôn vẻ lắm, nhưng trước khi đạt được đến sự hay, tối thiểu hãy viết một cách đúng đắn. Bản thân sự đúng đắn có cái hay của nó.

Viết đúng đắn có thực sự khó khăn tới vậy không? Không! Viết đúng đắn rất đơn giản, nhưng những kẻ bất lương trong nghề viết lại luôn cảm thấy viết đúng đắn là điều vô cùng khó khăn. Yếu tố căn bản để viết đúng đắn đó là “Nói có sách, mách có chứng”. Tức là, khi bạn đưa ra bất cứ một nhận định gì về tình trạng xã hội, bạn cần phải có bằng chứng và cơ sở rõ ràng, không thể bạ đâu phang đấy. Một bài viết vu vơ của bạn trên mạng có thể gây hại cho tâm trí của người khác, giống như một quân domino khi đổ có thể tạo ra hiệu ứng phá hủy hơn mức bạn nghĩ. Một thông tin bạn đưa ra khi chưa có kiểm chứng hoặc chưa chắc chắn đúng có thể tạo ra một niềm tin sai lầm cho cả đám đông và người  Một yếu tố quan trọng không kém đó là thật với lòng mình. Lòng mình không hẳn do mình quyết định mà do đủ các yếu tố bên ngoài tác động vào: từ truyền thống đến truyền thông, từ ám ảnh quá khứ đến những kỳ vọng tương lai. Nên thật với lòng mình không phải chỉ là “yêu ai cứ bảo là yêu/ ghét ai cứ bảo là ghét”, mà còn phải biết được cái lẽ yêu ghét của mình do cái gì chi phối.  Vậy nên, phải có bản lĩnh, phải có trí tuệ mới có thể “thật với lòng mình”. Đảm bảo được “viết đúng”, rồi bạn hẵng bàn đến “viết hay”.

Cái hay tuy không thể định nghĩa rõ ràng, nhưng có thể xem xét được tại sao một bài viết ta có thể đánh giá là hay. Khi đọc một bài viết “hay”, ta có hai trạng thái, hoặc là cái “hay” đấy phù hợp với não trạng của chúng ta, hoặc là cái “hay” là cái đột phá mà ta chưa từng nghĩ tới. Việc lựa chọn cái hay nào cũng tùy thời điểm, tùy độ tuổi, không thể lường trước. Ngay lập tức chọn kiểu “hay” này mà phủ nhận kiểu “hay” khác thì e rằng chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để mở mang tâm trí. Tuy nhiên, dù kiểu “hay” nào đi chăng nữa thì văn bản viết cũng cần phải phù hợp với học thức của người đọc. Một đứa trẻ mới học cấp 1 thì không thể thấy kịch Faust là hay, bởi nó không đủ kiến thức để hiểu các từ ngữ, không đủ trải nghiệm cuộc sống để hiểu các dằn vặt tâm lý, không đủ nhận thức xã hội để giải mã các ẩn ngữ bên trong… Và đương nhiên, một người đọc đủ các sách kinh điển với vốn kiến thức và hiểu biết rộng lớn, tự nhiên sẽ thấy những cuốn sách Nguyễn Nhật Ánh đang bán đắt khách hàng đầu kia là nhạt nhẽo. Nếu không có độ tương thích về vốn kiến thức và hiểu biết, người ta khó có thể thấy một văn bản là hay. Ấy chính là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” vậy.

Để đạt được cái “hay”, khó có thể hướng dẫn nhau. Hướng dẫn ai đó viết văn hay thực ra chỉ là hướng dẫn người ta cách lừa gạt thiên hạ. Điều quan trọng, suy cho cùng, tôi vẫn cho rằng, viết cho đúng mới thực là điều quan trọng. Một văn bản viết cho đúng đắn cũng đủ để không thẹn với người, không thẹn với mình. Lời đúng đắn thì chẳng nhất thiết phải suy tính trước sau mệt thân mệt não đắn đo như Hàn Phi Tử. Thời đó, Hàn Phi Tử còn sợ Tần Thủy Hoàng phật ý mà chém đầu chứ thời nay có ai chém đầu chúng ta đâu.

Với những người chưa có nhiều kinh nghiệm viết, chưa có kiến thức phong phú thì nên lấy sự đúng đắn là điều tâm niệm. Khi đặt viết điều đúng đắn làm trọng thì viết không còn là sự giãi bày nữa mà tự nhiên trở thành một phương thức để luyện tâm luyện trí, vừa mở rộng hiểu biết lại vừa nhận thức bản thân rõ hơn. Viết điều đúng đắn dần dần sẽ khiến chúng ta thấy chán ngán những sự bay bướm vô nghĩa hay những thủ thuật truyền thông khéo léo, dần dần chúng ta cũng nhận ra được những gì là chân giá trị trong cuộc đời, những gì chỉ là phù phiếm thoảng qua. Các cụ xưa nói, “văn chính là người”, vậy thì hãy làm người đúng đắn viết điều đúng đắn.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 12

“V for Vendetta” – Cuộc nổi dậy của lý tưởng

“V for Vendetta” là một bộ truyện tranh nổi tiếng vào thập niên 80-90 của thế kỷ 20 (Alan Moore & David Loyld) kể về một giả tưởng đen tối dự báo về sự cầm quyền độc tài ở nước Anh trong tương lai và cách thức con người phản kháng chống lại hệ thống. Nhân vật chính là V và Evey, những nạn nhân của hệ thống, đã tổ chức một cuộc đánh bom tòa nhà quốc hội vào ngày 5-11, kỷ niệm 400 năm ngày Guy Fawkes âm mưu làm nổ điện Westminster (1605). Biểu tượng V với chiếc mặt nạ Guy Fawkes đã gây một sức ám ảnh lớn với giới trẻ Âu Mỹ. Năm 2005, “V for Vandetta” được chuyển thể thành phim bởi anh em nhà Wachowski, tác giả của phim “The matrix” – 2000 và “Cloud Atlas” – 2012.

Mở đầu bộ phim là lời kể lại của Evey như một sự khẳng định về sức mạnh của lý tưởng: “Chúng ta được bảo rằng hãy ghi nhớ lý tưởng chứ không phải con người. Bởi vì con người có thể gục ngã, ông ta có thể bị bắt, bị giết và bị lãng quên. 400 năm sau một lý tưởng vẫn có thể thay đổi thế giới. Tôi đã tận mắt chứng kiến sức mạnh của lý tưởng, người ta giết chóc và chết để bảo vệ chúng. Nhưng bạn không thể hôn một lý tưởng, ôm lấy hay chạm vào nó. Lý tưởng không thể chảy máu, chúng không biết đau, chúng không biết yêu…” Bỏ qua tất cả những gì bạo lực, cực đoan, những hạn chế của đặc trưng văn hóa, chúng ta sẽ hiểu được rằng tác giả của “V for Vandetta” và ẩn ý của đạo diễn trong việc kích động một nghệ thuật nổi dậy mới – điều mà các cuộc bạo loạn trước đây chưa từng có trong lịch sử. Bởi thế mà V với chiếc mặt nạ Guy Fawkes trở thành biểu tượng chung cho Tổ chức hacker thế giới Anonymous.

Các cuộc nổi dậy trong lịch sử không dựa trên sự thật, chúng đều được tổ chức bằng những lời hứa hẹn của các lãnh tụ chính trị về một tương lai tốt đẹp hơn. Thế nhưng, tương lai của các cuộc nổi dậy hay cách mạng đều là chuẩn bị một cái lồng mới tinh vi hơn để thay thế cái lồng cũ, những “lời nói dối trắng” đã bị bôi bẩn theo năm tháng và trở thành tội ác được giấu diếm để duy trì quyền lực. Chỉ khi hệ thống phải che đậy quá nhiều sự dối trá, bảo mật thông tin của hệ thống mới được đề cao. Thế giới được mô tả trong “V for Vandetta” là một thế giới không có lời nói thật, các tác phẩm nghệ thuật và kiến thức, âm nhạc, nghệ thuật đều bị cấm, một nơi mà hoa hồng cũng bị tuyệt chủng. Những người dân trong đó vừa lòng với cuộc sống tiện nghi, bị đe dọa bởi nhà cầm quyền và an toàn trong nỗi sợ hãi. Thế nhưng, đâu đó vẫn có những người vi phạm điều luật về lòng trung thành để tàng trữ kiến thức, để giúp đỡ những kẻ nội dậy, những người mà ý chí tự do mạnh mẽ hơn nỗi sợ, những người tìm kiếm sự thật. Và “V for Vandetta” mô tả về một cuộc nổi dậy mới, không dựa trên những mô tả không tưởng về một xã hội tốt đẹp hơn, chỉ đơn giản là Sự Thật. Bất cứ con người nào sinh ra trên Trái Đất này cũng được quyền biết về Sự Thật, biết về những gì đang kiểm soát và chi phối đời sống của họ, biết về những gì ẩn đằng sau lời nói dối đang lan tràn như bệnh dịch trong bầu không khí.

Âm mưu dối trá của tên độc tài Adam Sutler là về dự án virus của chính phủ nhằm tạo ra một loại vũ khí sinh học để ngăn ngừa chiến tranh với tính hủy diệt Trái Đất ít hơn so với bom hạt nhân. Đó là lý lẽ để thuyết phục những khoa học gia ngây thơ về chính trị tham gia vào dự án. Thế nhưng, đằng sau lời hứa hẹn về chấm dứt chiến tranh, là âm mưu kiểm soát chặt chẽ hơn của những kẻ tham vọng quyền lực. Hãy tưởng tượng về một bệnh dịch tràn lan và giết chết hơn 80.000 người, và chỉ một nhóm quyền lực nắm được phương thuốc chữa trị. V là nạn nhân trong dự án ấy, anh bị đem ra làm vật thí nghiệm và là cá thể duy nhất còn sống sót. Biết được sự thực anh đã thiêu hủy khu trại thí nghiệm, khoác lên mình bộ áo choàng đen thời trung cổ và che dấu bộ mặt bằng xương bằng thịt của mình bằng mặt nạ Guy Fawkes. Ẩn dưới chiếc mặt nạ không phải một bộ mặt khác mà là một lý tưởng: Nếu hệ thống được dựng lên bằng lời dối trá thì nó sẽ bị hạ bệ bởi Sự Thật.

Người dân không nên sợ chính phủ của mình. Chính phủ nên sợ người dân của họ.
Người dân không nên sợ chính phủ của mình. Chính phủ nên sợ người dân của họ.

Evey là biểu tượng cho người dân thường. Anh trai cô bị chết vì bệnh dịch, bố mẹ cô nổi dậy chống lại chính quyền và bị ám sát… thế nhưng cô lại chôn vùi mình trong cuộc sống của sự dối trá thông thường… cho đến khi V xuất hiện. Với V, cô được sống lại những nguồn cảm hứng lý tưởng trong mình, được tiếp xúc với nghệ thuật, được nhớ về Shakespeare, Goethe, Tchaikovsky… Nhưng nỗi sợ hãi vân còn đó trong cô, có lẽ điều cô sợ không phải là cái chết, cô sợ đối mặt với sự thật. Cô đóng giả là cô gái mua vui đến gặp linh mục Lilithman và niềm tin sụp đổ khi thấy linh mục này hàng ngày khoác trên mình bộ trang phục kẻ tôi đòi của Chúa nhưng lại không thoát khỏi những ham muốn dâm loàn. Linh mục Lilithman là đại diện cho tầng lớp tăng lữ phục vụ các loại hệ thống, những kẻ tôi đòi của Chúa nhưng lại bán linh hồn cho Qủy Dữ. Thật đúng là “Với bộ mặt ngoan đạo và những hành động đạo đức giả, ta bọc đường cả quỷ dữ” Nhưng điều thật sự truyền cảm hứng đến Evey là tự truyện của Velery – một trong những tù nhân của thí nghiệm virus, từ đó cô hiểu rằng có nhiều điều còn quan trọng hơn cả cái chết, đó là sống với sự thật.

Mọi thứ được hệ thống tạo ra đều phục vụ hệ thống: chính phủ, nhà thờ, tập đoàn, trường học, an ninh, truyền thông… đều sẵn sàng nói dối để bảo vệ sự trật tự. Trong “V for Vandetta”, sau sự xuất hiện của V, những người trong chính phủ không thể không biện minh “Bịa đặt là công việc của chính phủ trên khía cạnh tích cực”. Hệ thống có thể nói dối nhưng con người thì không. Vì sợ hãi, con người thường tự ru ngủ mình bằng lời nói dối. Vì lý tưởng, con người được đánh thức bởi Sự thật. Và đó là cách lý tưởng tồn tại vĩnh viễn. Nhờ lý tưởng mà con người luôn hoài nghi hệ thống, chỉ cần ai đó cho họ biết rằng có nhiều người cũng đang hoài nghi điều giống họ, sự hỗn loạn hệ thống bắt đầu. Không có gì phá vỡ hệ thống mạnh mẽ hơn những con người đầy hoài nghi và tìm kiếm Sự Thật. Chúng ta đều là con người, dù bạn là chính trị gia, linh mục, thương gia, sinh viên, điều tra viên, phóng viên truyền hình… hay đơn giản là những công nhân, nông dân, nhân viên văn phòng… bạn đều được quyền quyết định về hệ thống như V đã nói: “Người dân không cần phải sợ chính phủ của họ, chính phủ cần phải sợ người dân của mình”.

V chỉ là người gieo rắc lý tưởng, anh không phải người hoàn thành nó.Người hoàn thành cuộc tấn công tòa nhà quốc hội là Evey, thám trưởng Finch và hàng vạn người đeo chiếc mặt nạ Guy Fawkes dũng cảm phá hủy hệ thống cũ. Cái gì đến sau khi sự thật được tiết lộ khi mọi hệ thống chính trị trong lịch sử đều dựa trên dối trá, đúng như Evey nghi ngờ: “Mỗi khi thế giới thay đổi nó lại trở nên tồi tệ hơn”. Thế nhưng lý tưởng tìm kiếm Sự Thật sẽ tiếp tục được nhắc đi nhắc lại hết thế hệ này đến thế hệ khác cho đến khi một hệ thống lý tưởng ra đời.

Lý tưởng ấy đến nay ngày càng được nhiều người hướng đến vì thế kỷ 21 là bắt đầu của kỷ nguyên thông tin và mọi sự bảo mật dối trá đều vô vọng. Người ta không thể giấu diếm sự dối trá hàng thế kỷ giống như những thời đại trước. Nếu một hệ thống không được hình thành bằng sự trung thực thì sẽ không bao giờ có được lòng trung thành. Giống như phản ứng Domino, Sự Thật lây lan như virus và chẳng bao lâu sẽ hủy hoại hệ thống cũ đang mục ruỗng từng ngày từng giờ. Điều này không chỉ xảy ra trên một quốc gia, nó xảy ra trên mọi quốc gia trên toàn thế giới.

Vậy bạn còn chần chừ gì nữa? Tại sao bạn không cho mình lựa chọn, hoặc là phần tử của niềm tin cũ, lối tư duy cũ, nhận thức cũ, tuân thủ hệ thống cũ; hoặc đạp bỏ hệ thống đó, hướng tới điều vĩnh cửu và chờ đợi một hệ thống mới mẻ tự nảy sinh. Lý tưởng không giúp tạo nên hệ thống vì lý tưởng luôn ở bên ngoài hệ thống, nhưng lý tưởng là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy sự hình thành hệ thống mới. Sự Thật có thể không mang đến cho bạn sự kỳ vọng vào tương lai, nhưng cho bạn quyền tự do chịu trách nhiệm về cuộc đời mình. Và một lời hào hùng của thiên tài Goethe sẽ kết thúc bài viết này để gieo rắc trong bạn những câu hỏi về Sự Thật: “Bằng sức mạnh của Sự Thật, tôi chế ngự cả vũ trụ” (“Faust”)

Anonymous

Nguồn: Internet

Home 2017 / page 12

Xem “Arrival”, nghĩ vài điều về thời gian và ngôn ngữ

Mới đầu năm 2017, các nhà làm phim Holywood đã cho ra đời hai bộ phim “siêu ảo” về dòng thời gian và những thông tin lưu chuyển tương ứng, đó là “Assassin’s creed” và “Arrival”. Tôi thích thú với “Assassin’s creed” hơn nhưng tôi sẽ không viết về nó bởi nó dường như vẫn đang dang dở. Tôi sẽ viết về “Arrival” không phải vì tôi thích nó mà vì những gì tôi thấy nực cười ở bộ phim này, và những lý giải về thời gian và ngôn ngữ của bản thân để phủ nhận những lý thuyết mà phim đề cập đến.

“Arrival” kể về một cuộc đổ bộ của người ngoài hành tinh trong hòa bình với mục đích hướng dẫn người dân thế giới cách học ngôn ngữ của họ với lời dụ rằng nếu học được thì sẽ có khả năng tư duy thời gian phi tuyến và nhìn được tương lai. Bộ phim này hẳn sẽ hấp dẫn những ai quan tâm đến triết học ngôn ngữ hay vật lý lý thuyết (Thật thâm ý khi chọn cặp đôi chính là một nhà ngôn ngữ học và một nhà vật lý lý thuyết). Nữ nhân vật chính, nhà ngôn ngữ học Louis Banks và nam nhân vật chính Ian Donnelly là một điển hình của các cặp đôi trong phim người ngoài hành tinh xâm lược Trái Đất. Họ có đủ kiến thức để giải mã ngôn ngữ của người ngoài hành tinh và phải sống trong môi trường quân ngũ, nói những chuyện đòi hỏi chuyên môn cao với những kẻ lãnh đạo không hiểu gì (lại một mô tuýp quen thuộc nữa) và những anh lính máu chiến. Trong lúc say sưa giải mã ngôn ngữ ngoài hành tinh thì tình hình chính trị của thế giới đã “loạn xì ngầu” bởi không khí hoảng sợ trên truyền thông và những tin đồn của các giáo phái. Bộ phim hoàn toàn có thể hay hơn nếu tất cả những yếu tố đó được tận dụng để lột tả một thế giới loài người ngu xuẩn thay vì xoáy sâu vào cơn mộng mị giữa quá khứ – hiện tại – tương lai của Louis Banks và những câu đùa cợt của Ian Donnelly. Tôi đã kỳ vọng rằng Louis Banks sẽ có nhiều cảm xúc hơn những cơn hoảng loạn và Ian Donnelly sẽ tận dụng được sở trường vật lý lý thuyết của anh hơn là đi đi lại lại chạy theo em Louis. Tôi cũng kỳ vọng bộ phim sẽ đan cài được bàn cờ chính trị một cách trung thực, nhưng phim lại đi vào một lối mòn tư duy kiểu nước Mỹ sẽ có đường lối chân chính – hòa giải, còn các quốc gia khác trên thế giới chỉ là lũ ngu xuẩn chạy theo cơn hiếu sát của Trung Quốc và Nga – chiến tranh. Một người bạn của tôi khi xem phim đã cười khẩy và nhận xét: “Bọn làm phim này không hiểu gì về tư duy chính trị của Trung Quốc. Bọn Trung Quốc trong bối cảnh ấy sẽ khích cho Mỹ tuyên chiến trước chứ chả dại gì mà tuyên chiến. Hoặc là bắt tay với người ngoài hành tinh để mượn lực tiêu diệt Mỹ.” Cũng là một ý hay! Nhưng thôi, tất cả những điều tôi phàn nàn chỉ là chi tiết nhỏ. Điều tôi quan tâm hơn cả là các lý thuyết mà phim này đặt ra.

Thứ nhất, khi học một ngôn ngữ thì não bộ của bạn sẽ được sắp xếp theo ngôn ngữ ấy. Điều này hoàn toàn đúng. Học một ngôn ngữ mới, nếu chỉ học theo kiểu “Monkey see, Monkey do” thì sẽ không thể hiểu được ngôn ngữ ấy. Thế nhưng nếu nắm được các nguyên tắc bên trong một ngôn ngữ, tức là bạn đã hiểu được cách thức tư duy của những người sử dụng ngôn ngữ ấy. Và khi bạn tiếp nhận bất cứ một loại hình kiến thức nào thì những kiến thức ấy cũng thay đổi cách thức não bộ của bạn vận hành và sẽ thay đổi cách các bạn nhận thức thực tại. Một ví dụ điển hình là chữ tượng thanh và chữ tượng hình. Chữ tượng thanh là sự mã hóa thông tin bằng âm thanh và được biểu hiện qua các ký hiệu mô phỏng âm thanh ấy. Tức là thông tin đã được trừu tượng hóa. Bạn không cần biết về hình thù của cái cây, nhưng khi nghe hoặc đọc chữ “Cây”, bạn vẫn có thể hình dung được rằng đó là một loài mọc từ đất và có lá xanh, hấp thụ Carbonic rồi thải ra Oxi. Nhưng vấn đề lớn với cách tượng thanh trừu tượng này, đó là nó lệ thuộc vào phần định nghĩa, mà định nghĩa luôn có giới hạn. Khi gặp phải những trường hợp cây không phải có màu xanh thì liệu có phải là cây? Chữ tượng hình, tỉ dụ như chữ Trung Quốc mô tả cây bằng chữ “Mộc”, không phải vẽ một cái cây mà vẽ các nguyên lý của cây với thân, rễ và cành. Tất cả các cây đều có đủ ba bộ phận này. Chữ tượng hình không trừu tượng hóa chỉ biểu tượng hóa mà thôi.  Học chữ tượng thanh, cách nhận thức thực tại của chúng ta sẽ theo lối diễn dịch tuyến tính bởi phụ thuộc và dòng chảy âm thanh trong khi nghe nói của chúng ta. Học chữ tượng hình cho ta cái nhận thức thực tại theo lối nguyên lý của sự vật, sự việc và trạng thái. Và cũng đôi khi chữ tượng hình áp những nguyên lý ấy lên cách ta nhận thức chứ không chắc rằng ta nhận thức được bản chất. Việc này rất vi tế và chỉ khi rất cảnh giác với những gì ta tiếp nhận trong não bộ mới có thể phát hiện ra được.

Trong “Arrival”, nhà ngôn ngữ học Louis Banks cho rằng ngôn ngữ của người ngoài hành tinh với xúc tu ấy là ngôn ngữ tượng hình. Vậy khái niệm “hình” ở đây nên được hiểu như thế nào trong khi những biểu hiện của ký tự được mô tả là vòng tròn với các vệt xước khác nhau. Những vết xước này khá giống đồ thị dao động của sóng âm. Những “hình” mà chúng nhìn thấy sẽ là các tần số dao động của vật chất, giống như dơi. Như vậy, thứ chúng nhìn thấy là “hình” của sóng chứ không phải cái biểu hiện của vật chất qua không gian và ánh sáng phản chiếu trong mắt của chúng ta. Nhận thức thế giới ở dạng sóng nên những người ngoài hành tinh này cũng phát âm dưới dạng sóng với những tiếng “Aum” quen thuộc mà các trường phái tu Ấn Độ và Tây Tạng vẫn sử dụng. Học loại ngôn ngữ này, bản chất là học cách nhận thức thế giới bằng các rung động của sóng. Loại tượng hình này khác hẳn với tượng hình của Trung Quốc hay Ai Cập…v…v… và cũng không phải là tượng thanh. Khuôn chữ của người ngoài hành tinh luôn có hình tròn, gợi cho ta liên tưởng tới sóng âm luôn truyền đi theo hình cầu. Điều này càng khiến tôi tin rằng người ngoài hành tinh trong “Arrival” tư duy ngôn ngữ theo hình của sóng âm.

Vậy thứ chữ tư duy bằng sóng âm này liên quan gì đến thời gian phi tuyến? Bộ phim nhắc đi nhắc lại rất nhiều về thời gian phi tuyến. Trong phim, Louis Banks luôn bị ám ảnh bởi đứa con đã qua đời vì ung thư của mình. Những ám ảnh ấy xen kẽ với hiện thực là cô đang giải mã ngôn ngữ của người ngoài hành tinh. Nhưng đến cuối phim người xem, và cả Louis Banks mới nhận ra rằng đó là tương lai chưa xảy ra. Tương lai ở đây đã bị nhầm lẫn thành quá khứ. Bộ phim lý giải rằng học thứ ngôn ngữ ngoài hành tinh thì sẽ học được cách tư duy phi tuyến về thời gian. Lại một vấn đề phức tạp khác được đặt ra ở đây! Bản chất thời gian là gì? Một tranh luận nhiều nghìn năm lịch sử và chưa bao giờ có lời giải đáp. Tôi sẽ nói những nhận thức của tôi về thời gian. Nếu các vật chất không va đập vào nhau và ở trạng thái tĩnh, thời gian có lẽ sẽ không tồn tại. Thời gian trôi chảy dựa trên một chuỗi các va đập của vật chất. Khi vật chất va đập vào nhau tạo ra các chuỗi sóng âm thì dòng chảy thời gian bắt đầu được hình thành. Thế nên, thời gian trôi đi chúng ta vốn không thể nhìn thấy, nhưng nhìn được các biểu hiện của dòng thời gian. Ví dụ như chúng ta cảm thấy thời gian trôi qua mặt trời lặn, mặt trời mọc; qua hoa nở hoa tàn; qua sự bắt đầu và kết thúc rồi lại tái sinh. Nếu muốn thay đổi dòng chảy thời gian, một cách khoa học viễn tưởng, đó là tác động vào sự va chạm của những vật chất. Như vậy, bản chất thời gian là phi tuyến, là không thể định trước, là có nhiều khả năng. Bởi sự kiện gì diễn ra trong tương lai phụ thuộc vào cách ta tác động vào vật chất. Như thế, cái thứ mà đám người ngoài hành tinh tự nhận là thời gian phi tuyến ấy có thể là cái gì?

Louis Banks nhìn thấy tương lai đã được định sẵn của mình, trong đó cô biết trước được điều mình cần phải nói với một tướng quân Trung Quốc và lặp lại y hệt những gì tương lai diễn ra. Như thế, chẳng phải hiện thực này của Louis Banks đang bị chi phối bởi một tương lai không phải do cô quyết định mà do một thế lực siêu nhiên nào đó đã bày sẵn cho cô? Nếu thực sự thời gian là phi tuyến thì tại sao đám người ngoài hành tinh không dạy cô cách tác động vào vật chất để thay đổi tuyến tính của thời gian. Nếu thời gian là phi tuyến tại sao Louis Banks chỉ có thể đi theo một tương lai duy nhất mà cô nhìn thấy? Tư duy về thời gian của người ngoài hành tinh ở thế kỷ 21 xem ra còn lạc hậu hơn tư duy của Schrodinger trong nghịch lý con mèo. Nghịch lý con mèo có nội dung như sau:

“Một con mèo được nhốt vào trong hòm sắt, cùng với các thiết bị sau (mà con mèo không thể tác động vào): một ống đếm Geiger và một mẩu vật chất phóng xạ nhỏ đến mức trong vòng một tiếng đồng hồ chỉ có 50% xác suất nó phát ra một tia phóng xạ. Nếu có tia phóng xạ phát ra, ống đếm Geige sẽ nhận tín hiệu và thả rơi một cây búa đập vỡ lọ thuốc độc hydrocyanic acid nằm trong hòm sắt và mèo sẽ chết. Nếu trong vòng một tiếng vẫn không có tia phóng xạ nào phát ra, mèo sẽ vẫn sống. Hàm sóng của hệ thống sẽ là sự chồng chập của cả trạng thái con mèo sống và con mèo chết và cả hai trạng thái chồng chập có biên độ như nhau. Trong những trường hợp như thế này, sự vô định của thế giới vi mô đã chuyển sang thế giới vĩ mô, và có thể được giải quyết bằng quan sát trực tiếp. Nó giúp chúng ta tránh phải chấp nhận một cách ngây thơ một “mô hình bị làm nhòe” khi mô tả thực tại. Bản thân các tình huống như thế này không có gì thiếu rõ ràng. Có sự khác biệt giữa một bức ảnh chụp nhòe của vật thể nào đó và một bức chụp rõ nét của đám mây hay sương mù” (Trích bài báo “Hiện trạng của cơ học lượng tử” – E.Schrodinger )

Nghịch lý này cho thấy có nhiều hiện thực song song đồng tồn, hay có nhiều khả năng có thể diễn ra với thực tại. Và người quan sát thực tại cũng có thể tác động vào thực tại. Có nghĩa là thời gian vốn dĩ phi tuyến, cũng giống như không gian vốn dĩ có rất nhiều chiều vậy. Vậy thì sự phi tuyến thật sự là chúng ta, giống như người quan sát, luôn có các cơ hội để chọn tương lai dựa trên các quyết định của hiện tại. Cái gọi là tương lai đã được biết trước bản chất là sự sắp xếp tương tác vật chất theo lộ trình có sẵn. Sự tiên tri về tương lai của cá nhân hay nhân loại bản chất là một lối ám thị về cách sắp xếp vật chất do một thế lực siêu nhiên nào đó (nếu có) lên chúng ta. Những lời tiên tri, hay cảm giác “Deja-vu” chỉ là một lối tự ám thị lên mình và nhân loại một tương lai đã được sắp sẵn. Ai đó đã mượn tay các nhà tiên tri để chúng ta tự ám thị chúng ta. Nếu cá nhân hoặc nhóm người nào đó có ý định tự chọn định mệnh cho mình xem ra sẽ bị sự sắp sẵn này nghiền nát.

Bộ phim cho thấy một sự tuân phục của tác giả và nhà làm phim trước các hiện tượng tâm linh dường như không thể lý giải bằng khoa học, mà cụ thể là hiện tượng tiên tri. Các biểu tượng được sử dụng ưa thích là tiếng “Aum” của những trường phái Mật Tông. Cách giải quyết vấn đề là giải pháp hòa bình và chấp nhận để đám người ngoài hành tinh ấy tác động đến não bộ của Louis Banks bằng việc học tập tư duy ngôn ngữ của chúng. Và đương nhiên, một giấc mơ không tưởng khác: Trung Quốc trở nên hiền lành và quy thuận sự hiểu biết của Mỹ. Người ta đồn đại nhau rất nhiều về các lời tiên tri như của Nostradamus, Vanga, Thomas Cayce…v…v…, người ta phát cuồng vì Astrology, Tử Vi, Tarot, Kinh Dịch…v…v… Người ta có nhu cầu biết trước tương lai được định sẵn. Nhưng người ta không có gan và không đủ tâm sức để luyện tập cách mình tác động và thay đổi tương lai. Đã bảo giờ các bạn tự hỏi tại sao những lĩnh vực xem trước tương lai lại có các quy ước nhất định như thế? Tại sao  có những kẻ tin tưởng vào lời tiên tri và tự cho mình cái sứ mệnh thực hiện lời tiên tri ấy? Bạn sẽ cảm thấy vui vẻ khi mình được sắp trước một tương lai hay thấy nhục nhã vì mình chỉ là con rối của định mệnh?

Giới tâm linh đang can thiệp vào đời sống chính trị và xã hội của chúng ta một cách thái quá. Họ – những kẻ tự cho mình là nhận thức được bản chất của thực tại, tự cho mình cái quyền cung cấp các mẩu thông tin mà thế lực siêu nhiên nào đó chính bản thân họ không hiểu hết tới nhân loại. Họ, trở thành một công cụ để áp đặt định mệnh lên loài người. Họ cung cấp các phương pháp thực tập tâm linh để qua đó ấn định nhân loại thành công cụ cho định mệnh đã được sắp xếp để diễn ra. Tôi chỉ muốn gửi đến họ câu nói của con gái tôi: “Mẹ ơi, tương lai không có thật đúng không? Nếu tương lai có thật tức là nó đã diễn ra, mà diễn ra thì nó là hiện tại”. Những người như tôi và con gái tôi tin rằng chúng ta hoàn toàn có thể chọn cho mình một tương lai chứ không phải trở thành công cụ của định mệnh.

Hà Thủy Nguyên