Home Dịch thuật Dẫn nhập Kabbalah (1): Tầm quan trọng của Kabbalah trong văn hóa Do Thái

Dẫn nhập Kabbalah (1): Tầm quan trọng của Kabbalah trong văn hóa Do Thái

Hà Thủy Nguyên: Tôi quyết định dịch cuốn sách Dẫn nhập Kabbalah của Joseph Dan (Tên tiếng Anh: “Kabbalah – A very short introduction”, NXB Oxford University Press, 2006) và đăng tải online thay vì xuất bản chính thức và bán bởi vì cuốn sách phục vụ nhu cầu học hỏi của chính bản thân tôi nhiều hơn là hữu ích với ai đó. Khi tiếp cận văn hóa Do Thái, người ta thường quan tâm tới khía cạnh vĩ mô của chính trị, tôn giáo, văn hóa, kinh tế… chứ ít quan tâm tới các chi tiết văn hóa, nhất là một truyền thống mang nhiều yếu tố thần bí như Kabbalah. Nhưng tôi tin rằng, cuốn sách vẫn sẽ hữu ích với những ai đó, những người nghiên cứu lĩnh vực huyền môn hoặc đam mê văn hóa Do Thái.

Bản dịch tiếng Latin của Shaaey Ora (“Cổng ánh sáng”), một trong những luận giải có ảnh hưởng nhất về thế giới quan theo thuyết kabbalistic, được viết bởi Joseph Gikatilla vào thế kỷ thứ mười ba.

Chương I – Khái niệm và ý nghĩa của Kabbalah

Tầm quan trọng của Kabbalah trong văn hóa Do Thái

Du khách đến đất nước Israel hẳn sẽ bắt gặp kabbalah không ít lần mỗi ngày. Khi bước vào một khách sạn, người ấy hẳn sẽ bắt gặp một chiếc bàn, phía sau có một tấm biển lớn ghi “Kabbalah”; bằng tiếng Anh, tấm biển tương tự ghi “Lễ tân”. Khi người ấy mua bất cứ thứ gì hoặc thanh toán cho một dịch vụ, sẽ nhận được một mảnh giấy có chữ “Kabbalah” viết bằng chữ Do Thái lớn. Nếu có bản dịch tiếng Anh trên mảnh giấy đó, nó sẽ ghi “Biên lai”.

Khái niệm này xuất hiện trong nhiều hoàn cảnh. Nếu người ấy được mời đến một buổi chiêu đãi, khái niệm tiếng Do Thái cho sự kiện này là “kabbalat panim” (nghĩa đen là “nhận mặt”). Nếu người ấy muốn đến thăm một ngân hàng hoặc một văn phòng chính phủ, trước tiên phải kiểm tra kabalat kahal – giờ tiếp đón công chúng, tương đương với từ “mở cửa” trong tiếng Anh. Mọi giáo sư, thuộc bất kỳ ngành nào, đều tham gia hàng tuần vào giờ kabbalistic, sheat kabbalah, tức là giờ làm việc, tại đó mở cửa cho sinh viên tới gặp. Động từ “kbl” có mặt trong mọi câu khác trong tiếng Do Thái, có nghĩa đơn giản là “Nhận.” Khi xem xét hành vi, những người Israel nói tiếng Do Thái dường như không nhận biết được rằng họ đắm chìm trong chủ nghĩa thần bí sâu sắc thế nào mà chỉ coi kabbalah như một từ đơn giản, trần tục trong ngôn ngữ của mình. Trong bối cảnh tôn giáo, câu chủ chốt mà trong đó từ này được sử dụng được tìm thấy ở chương mở đầu Talmud (talmudic tractate avot) một trong những văn bản tiếng Do Thái rabbi nổi tiếng nhất được hình thành vào thế kỷ thứ II sau công nguyên. Phần đầu tiên của cuốn sách này mô tả chuỗi truyền thống của luật Do Thái và chỉ dẫn tôn giáo, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Giai đoạn đầu tiên của quá trình truyền tải này, như được mô tả trong đoạn văn, là: “Moses đã nhận [kibel] Kinh Torah trên [Núi] Sinai và truyền cho Joshua, người [đã truyền] cho các Trưởng lão [Israel] . . . ”; văn bản tiếp tục mô tả việc truyền miệng truyền thống này cho các quan chấp chính, các nhà tiên tri và các nhà hiền triết đầu tiên của Talmud. Đoạn văn này đã được sử dụng trong gần hai nghìn năm để xác nhận toàn bộ truyền thống Do Thái, xác định sự mặc khải trên Núi Sinai là điểm xuất phát, khẳng định chính danh từ sự thiêng liêng của sự kiện đó. Thuật ngữ “torah” trong câu này được hiểu là có nghĩa là mọi thứ—kinh thánh, luật pháp (halakhah), các quy tắc đạo đức, diễn giải thánh thư (midrash)—mọi điều liên quan đến lẽ thật về nguồn gốc thần thánh. Thậm chí người ta còn cho rằng mọi điều mà một học giả có thể tạo tác đều được Chúa ban cho Moses: những điều có vẻ là sự chiêm nghiệm tôn giáo xuất sắc và sáng tạo, đã được Moses biết đến, được Chúa truyền đạt trong sự mặc khải toàn bộ. Những gì Moses “nhận được” vào thời khắc đó là kabbalah—truyền thống, trong bối cảnh này mang ý nghĩa đặc biệt của truyền thống thiêng liêng có nguồn gốc thần thánh, một phần được tìm thấy bằng văn bản (kinh thánh), và một phần được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo người Do Thái.

Những quan niệm tương tự về truyền thống cũng được tìm thấy trong Kitô giáo và Islam. Giáo hội Công giáo được coi là kho tàng truyền thống trao quyền thiêng liêng cho những chỉ dẫn của mình. Các học giả Islam, ngoài Kinh Qur’an, còn sở hữu một kho tàng trí tuệ thần thánh rộng lớn được Muhammad truyền miệng cho các đệ tử của ông và các đệ tử của họ. Trong tiếng Do Thái, truyền thống này được gọi là masoret (“điều đã được truyền”) hoặc kabbalah (“điều đã được nhận”). Từ “kabbalah,” trong những bối cảnh như vậy, là một từ viết tắt, biểu thị lẽ thật thiêng liêng mà Moses nhận được từ Đức Chúa Trời; khái niệm này không đề cập đến một loại nội dung cụ thể. Nó mô tả nguồn gốc và cách thức truyền bá mà không nhấn mạnh đến bất kỳ kỷ luật hay chủ đề nào. Về cơ bản, khái niệm này truyền tải điều ngược lại với những gì thường được công nhận là “chủ nghĩa thần bí”, được quan niệm là liên quan đến những thị kiến và trải nghiệm nguyên bản, cá nhân. “Kabbalah” trong từ vựng tôn giáo tiếng Do Thái có nghĩa là chân lý tôn giáo phi cá nhân, phi kinh nghiệm, được tiếp nhận nhờ truyền thống.

Hà Thủy Nguyên dịch

(Còn tiếp)

Theo dõi Dự án dịch Dẫn nhập Kabbalah: Dẫn nhập Kabbalah Archives – Hà Thuỷ Nguyên (hathuynguyen.com)

 

Dẫn nhập Kabbalah (3): Các luận thuyết bí truyền cổ đại

Chương 2 của cuốn sách có tựa đề "Bí Giáo Do Thái Cổ Đại và Sự trỗi dậy của Kabbalah", và bài này là phần đầu tiên của chương với tựa đề "Các luận thuyết bí truyền cổ đại". Để đọc toàn bộ chùm bài Dẫn nhập Kabbalah, được dịch từ cuốn sách “Kabbalah – A very short introduction”, NXB Oxford University Press, 2006, xin mời theo dõi tại đây: Dẫn nhập Kabbalah Archives – Hà Thuỷ Nguyên (hathuynguyen.com) Các trường phái khác nhau của Kabbalah, từ

Dẫn nhập Kabbalah (4): Sefer Yezira – Sách Sáng Thế

Mời các bạn xem phần tiếp theo của Chương 2 trong cuốn sách có tựa đề “Bí Giáo Do Thái Cổ Đại và Sự trỗi dậy của Kabbalah”, nội dung xoay quanh sự ảnh hưởng của “Sefer Yezira - Sách Sáng Thế” lên Kabbalah. Để đọc toàn bộ chùm bài Dẫn nhập Kabbalah, được dịch từ cuốn sách “Kabbalah – A very short introduction”, NXB Oxford University Press, 2006, xin mời theo dõi tại đây: Dẫn nhập Kabbalah Archives – Hà Thuỷ Nguyên (hathuynguyen.com) Một trong những

Dẫn nhập Kabbalah (6): Sách Bahir

Mời các bạn xem phần tiếp theo của Chương 2 trong cuốn sách có tựa đề “Bí Giáo Do Thái Cổ Đại và Sự trỗi dậy của Kabbalah”, nội dung xoay quanh sự ảnh hưởng của sách Bahir - tác phẩm căn bản nhất thể hiện thế giới quan huyền bí của người Do Thái. Để đọc toàn bộ chùm bài Dẫn nhập Kabbalah, được dịch từ cuốn sách “Kabbalah – A very short introduction”, NXB Oxford University Press, 2006, xin mời theo dõi tại đây: Dẫn

Dẫn nhập Kabbalah (2): Khái niệm thời Trung cổ

Mời các bạn đọc phần tiếp theo của Chương I - Khái niệm và ý nghĩa của Kabbalah. Để đọc toàn bộ chùm bài Dẫn nhập Kabbalah, được dịch từ cuốn sách “Kabbalah – A very short introduction”, NXB Oxford University Press, 2006, xin mời theo dõi tại đây: Dẫn nhập Kabbalah Archives - Hà Thuỷ Nguyên (hathuynguyen.com) Khái niệm Kabbalah thời Trung Cổ Đây là ý nghĩa tôn giáo duy nhất của thuật ngữ “kabbalah” trong suốt một thiên niên kỷ. Vào thế kỷ thứ

Dẫn nhập Kabbalah (5): Những người theo chủ nghĩa sùng đạo (pietism) tại Đức thời Trung cổ

Mời các bạn xem phần tiếp theo của Chương 2 trong cuốn sách có tựa đề “Bí Giáo Do Thái Cổ Đại và Sự trỗi dậy của Kabbalah”, nội dung xoay quanh sự hình thành các quan niệm về Kabbalah từ những giáo sĩ Do Thái theo chủ nghĩa sùng đạo tại Đức. Để đọc toàn bộ chùm bài Dẫn nhập Kabbalah, được dịch từ cuốn sách “Kabbalah – A very short introduction”, NXB Oxford University Press, 2006, xin mời theo dõi tại đây: Dẫn nhập Kabbalah