Home Dịch thuật Dịch thơ Khúc Giang – Đỗ Phủ

Khúc Giang – Đỗ Phủ

Kỳ 1

Một mảnh hoa bay xuân đã phai

Gió bay vạn nẻo khách sầu ai

Tàn hoa cứ ngắm cho lòng thỏa

Say rượu chớ từ kẻo đau hoài

Trên sông nhà nhỏ chim làm tổ

Bên vườn mả cũ ngựa nằm dài

Ngẫm đời phải lẽ nên hành lạc

Cớ gì danh lợi vướng thân đây.

 

Kỳ 2

Mang áo xong chầu vội về ngay

Đầu sông ngày ngày thỏa trân say

Tiền rượu nợ nần ai mà chẳng

Cõi đời thất thập mấy ai đây

Bươm bướm vờn hoa phơ phất lượn

Chuồn chuồn giỡn nước chập chờn bay

Này ai đừng lỡ cùng thưởng ngoạn

Kẻo cảnh qua rồi lại tiếc thay.

 

Hà Thủy Nguyên dịch

 

Bản phiên âm Hán Việt

Kỳ 1

Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân,
Phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân.
Thả khan dục tận hoa kinh nhãn,
Mạc yếm thương đa tửu nhập thần.
Giang thượng tiểu đường sào phí thuý,
Uyển biên cao trủng ngoạ kỳ lân.
Tế suy vật lý tu hành lạc,
Hà dụng phù danh bạn thử thân.

Kỳ 2

Triều hồi nhật nhật điển xuân y,
Mỗi nhật giang đầu tận tuý quy.
Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
Nhân sinh thất thập cổ lai hy.
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,
Ðiểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi.
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
Tạm thời tương thưởng mạc tương vy.

Hoa hạ túy – Lý Thương Ẩn

Tầm phương bất giác tuý lưu hà, Ỷ thụ trầm miên nhật dĩ tà. Khách tán tửu tỉnh thâm dạ hậu, Cánh trì hồng chúc thưởng tàn hoa. *Bản dịch của mình: Say ánh chiều tà bãi cỏ thơm Tựa cây chìm bóng giấc hoàng hôn Nửa đêm sực tỉnh người đâu tá Đuốc rọi tàn hoa bước cô đơn.” --------- Đang viết Thiên địa phong trần Tập 2, chợt nổi hứng dịch bài thơ này!   Hà Thủy Nguyên dịch

Tương tiến tửu – Lý Bạch

"Thương tiến tửu" là bài thơ nổi tiếng nhất của Lý Bạch, đại diện cho tinh thần say và tư tưởng nhân sinh của ông. Bài thơ này đã đi theo những năm tháng thanh xuân nông nổi nhất của đời tôi, và cứ thỉnh thoảng những câu thơ vẫn vọng trong tâm trí ngăn tôi khỏi những cuồng vọng. Năm 2018, tôi đã dịch bài thơ này, và hôm nay, một ngày xuân 2024, tôi ngồi chuốt lại câu từ và gieo vần, để

Lậu thất minh – Lưu Vũ Tích

Núi nào bởi cao, tiên ở thành danh Nước nào tại sâu, rồng ngụ mà linh Gian nhà quê mùa, đức vang tiếng lành Biếc thềm vệt rêu phủ, rèm thưa cỏ chìm xanh Bậc túc nho cười nói, phường tục tử bặt thanh Khẽ gảy cây đàn mộc, tụng Kim cang Chẳng đàn sáo để bận tai, không án thư mà nhọc mình Nam Dương có lều cỏ, Tây Thục có nguyên đình (*) Khổng Tử hỏi: “Có chi mà quê mùa?” Hà Thủy

Bồ tát man – Lý Bạch

Rừng xa tịch mịch lụa mây vờn Núi trơ một dải rợn thê lương Lầu cao bóng chiều buông Trên lầu người buồn thương Thềm ngọc hoài trông ngóng Về tổ chim chiều liệng Về nhà đường nơi đâu Đình lại quán nối nhau. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Bình lâm mạc mạc yên như chức, Hàn san nhất đới thương tâm bích. Minh sắc nhập cao lâu, Hữu nhân lâu thượng sầu. Ngọc giai không trữ lập, Túc điểu quy phi cấp.

Thu lai – Lý Hạ

Xào xạc ngô đồng tráng sĩ rầu Đèn lụi vạc kêu áo lạnh đâu. Sách tre nằm đó nào ai thấy Bụi phủ mọt xông chẳng người lau. Đêm thu lòng bận thêm đau quặn Mưa lạnh hồn vương khóc người xưa. Mộ thu quỷ khóc thơ ngài Bảo Máu hận ngàn năm thấm ngọc sâu. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Đồng phong kinh tâm tráng sĩ khổ, Suy đăng lạc vĩ đề hàn tố. Thuỳ khan thanh giản nhất biên thư, Bất