Home Bình Luận “CHÍNH TRỊ LUẬN” CỦA ARISTOTLE VÀ SỰ PHÊ PHÁN CÁC MÔ HÌNH XÃ HỘI

“CHÍNH TRỊ LUẬN” CỦA ARISTOTLE VÀ SỰ PHÊ PHÁN CÁC MÔ HÌNH XÃ HỘI

I – Góc nhìn chính trị của Aristotle

“Chính trị luận” của Aristotle là một tác phẩm kinh điển mang tính chất đột phá trong lịch sử triết học và chính trị học không phải ở mức độ liệt kê quy mô mà ở tầm nhìn. Trước Aristotle, chính trị chỉ đơn thuần được xem như mối quan hệ giữa người cai trị và người bị trị trong một quốc gia. Thậm chí với Plato, người thầy của Aristotle, chính trị vẫn là một thứ mơ hồ được đóng khung trong mô hình nhà nước lý tưởng. Aristotle thì khác, ông là một triết gia hiếm hoi trong lịch sử thế giới thành công trong vai trò chính trị – là người thầy, cố vấn cho vị hoàng đế vĩ đại nhất Hy Lạp cổ đại: Alexadre Đại Đế. Bởi thế, ông nhìn chính trị với con mắt của người trong cuộc và thấy rằng chính trị là một lĩnh vực tổng thể:

“Cũng giống như trong các ngành khác của khoa học, chính trị cũng vậy, một hợp chất luôn luôn có thể được phân giải ra thành những phần tử đơn giản hay nhỏ nhất của tổng thể. Do đó, chúng ta phải xem xét các phần tử cấu thành nhà nước, hầu có thể thấy được các luật lệ khác nhau của các loại chính quyền khác nhau như thế nào, và có thể rút ra được một kết luận khoa học nào chăng về mỗi loại chính quyền”.

Trước khi là một triết gia, một nhà chính trị, Aristotle đã từng theo học học viện của Plato, và chịu ảnh hưởng trước tác cuối cùng của thày mình là “Luật pháp”. Nhưng sau khi Plato qua đời, Aristotle không phục người kế nhiệm học viện, nên đã rời bỏ Athens, du hành đây đó, thử nghiệm áp dụng tri thức bản thân trong suốt 12 năm. Sau đó, ông và người bạn thân là Xenocrates cùng với một số triết gia khác đã thành lập một Học viện chính trị tại đô thành Troad của vị vua độc tài Hermias. Ông trở thành bạn thân của Hermias và được vua gả cháu gái. Tại đâu, ông hiểu rõ hơn về chế độ quân chủ và hiểu thêm được các nguyên tắc thương mại, ngân hàng từ đô thành này.

Một thời gian sau, Aristotle được vua Philip của xứ Macedonia mời đến Pella để dạy học cho hoàng tử Alexandre. Những tài liệu còn sót lại cho biết, Aristotle đã gửi cho Alexandre hai bản luận cương về “Thuật làm vua” và “Cai trị các thuộc địa”. Sau khi Alexandre thành công, Aristotle trở về Athens và mở học viện Lyceum, thắt chặt mối quan hệ với Antipater – người đề xướng tinh hoa trị (Oligarchy hay còn gọi là Aristocracy).

Sau khi Aristotle qua đời vào năm 322 TCN, tư tưởng chính trị của ông vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến chính trị Athens. Bản hiến pháp của Athens do Antipater soạn thảo tiếp thu quan điểm về quyền đầu phiếu giới hạn trong số dân Athens có tài sản từ 2000 drachmas trở lên, nghĩa là giới hạn trong giới trung lưu. Sau đó, Demetrius, một người học trò của Aristotle lên cai trị Athens và biến những gì Aristotle đã dạy tại Lyceum.

Do có quá trình nghiên cứu về tự nhiên học, siêu hình học và đề xướng ra Logic học, Aristotle viết “Chính trị luận” với cái nhìn quy nạp, đi từ nhỏ đến lớn, từ phần tử đến tổng thể, từ cá nhân đến xã hội, từ cụ thể đến trừu tượng. Lối tư duy này trái ngược hẳn với Plato thày ông, người đã đề xướng chủ thuyết lý tưởng.

  1. “Con người là một sinh vật mang tính chính trị”

“Con người là một sinh vật mang tính chính trị” là câu nói nổi tiếng của Aristotle mà bất cứ ai quan tâm đến chính trị đều thấm thía. Điều đó có nghĩa là, con người khác với con vật ở chỗ có thể ý thức được vai trò của mình trong cộng đồng, Con vật tương tác với nhau do bản năng, còn con người tương tác với nhau không chỉ có bản năng mà còn có ý thức. Tính ý thức ấy chính là tính chính trị.

Trong cộng đồng người, Aristotle cho rằng việc phân chia người cai trị và kẻ bị trị là điều tự nhiên. “Những phần tử có khả năng, nhờ sự khôn ngoan biết tính toan, lo xa, dĩ nhiên trở thành phần tử cai trị, còn những phần tử mà khả năng chỉ do sức mạnh của thể chất mang lại, để làm những gì mà phần tử kia hoạch địch, là phần tử bị trị, đương nhiên ở trong tình trạng nô lệ.” Đây là một định nghĩa sâu sắc về người tự do và nô lệ. Và cho dù các xu thế chính trị mới đề cao giá trị bình đẳng thường bài trừ quan niệm về nô lệ này của Aristotle nhưng thực tế vẫn không thể phủ nhận: người biết tư duy thì có thể có tự do, kẻ không tư duy chỉ biết răm rắp làm theo đó chính là nô lệ. Mối quan hệ phụ thuộc này biểu hiện rõ ngay từ các phần tử nhỏ của xã hội là gia đình, rồi đến các làng mạc. Aristotle phân tích rằng, mối quan hệ giữa người cai trị và bị trị xuất phát từ trong gia đình, tới làng mạc chính là tiền đề cho việc một quốc gia cần có vua cai trị, và ngay cả thần thánh cũng cần tới một vị vua để cai trị.

Từ sự mở rộng và phát triển của làng mạc, nhà nước (polis) ra đời một cách tự nhiên, một bước tiếp theo của gia đình, làng mạc. “Và như thế, nếu các hình thức ban đầu của xã hội là tự nhiên, thì nhà nước cũng vậy, vì nhà nước là kết quả cuối cùng của mọi xã hội, và tính tự nhiên của sự vật chính là chung cục của nó. Vì ta gọi là tự nhiên khi một sự vật được phát triển đầy đủ tới dạng cuối cùng của nó, dù đó là một con người, một con ngựa, hay một gia đình.” Vậy nên, nhà nước là một tất yếu trong bước phát triển nhân loại. Aristotle cho rằng bất cứ ai một cách tự nhiên, chứ không phải do hoàn cảnh khách quan xô đẩy, lại “chọn sống ở ngoài cộng đồng chính trị, thì kẻ đó hoặc là chẳng ra gì, hoặc là một siêu nhân hơn người.” Trong suốt những năm từ 1960 đến nay, phong trào vô chính phủ cực đoan đã cổ vũ lối sống tách biệt khỏi cộng đồng chính trị. Và theo quan niệm của Aristotle những người nằm trong số “chẳng ra gì” hoặc “siêu nhân”, mà tôi tin rằng gần như toàn bộ là “chẳng ra gì”.

Một lập luận mang tính nghịch lý mà rất nhiều người đề cao quyền tự nhiên của con người hẳn sẽ thấy bất bình khi nghe đó là: “Nhà nước hiện hữu bởi tự nhiên và có trước nhân nhân. Chứng cứ của cả hai lập luận này là sự kiện nhà nước là tổng thể, còn cá nhân là cá thể. Mọi cá nhân không thể nào tự túc khi sống cô lập, bởi vì mọi cá nhân là vô vàn các cá thể cùng lệ thuộc vào cái tổng thể, là cái mà chỉ có nó mới đem lại sự sung túc cho tất cả.” và “Cái tổng thể luôn nhất thiết phải hiện hữu trước cá thể theo tự nhiên. Nếu cả cơ thể bị tiêu hủy, thì sẽ chẳng còn cái chân hay cái tay nữa, ngoại trừ theo cái nghĩa mơ hồ mà người ta thường dùng cùng một từ để chỉ các vật khác nhau, như khi ta nói về một cái tay bằng đá, vì một cái tay khi bị tiêu hủy (khi cả thân thể bị tiêu hủy) thì hơn gì một cái tay bằng đá đâu?””

Nếu chúng ta gạt bỏ các định kiến chính trị ngày nay, chúng ta sẽ nhận ra rằng đây là vấn đề cốt lõi của thế giới hiện đại: cuộc đấu tranh giữa hệ thống và tính cá nhân. Hệ thống tổng thể sẽ không dễ dàng sụp đổ khi có vài cá thể tách khỏi. Hệ thống sụp đổ thì chắc chắn cá thể trong hệ thống sẽ không tồn tại nữa, và theo Aristotle thì các cá thể đó đã “mất khả năng thực thi chức năng”. Quan điểm hệ thống có trước cá nhân dễ dàng được Công giáo và các chính trị gia chấp nhận, bởi  nó tạo ra ràng buộc chặt chẽ giữa người dân và nhà nước. Thế nhưng, cái cơ chế ràng buộc ấy có thành công hay không lại lệ thuộc rất nhiều vào việc họ có hiểu đúng kiến giải này của Aristotle hay không. Mặc dù cá nhân lệ thuộc nhiều vào hệ thống và ở trong hệ thống, nhưng không có nghĩa rằng hệ thống có quyền triệt tiêu mọi yếu tố cá nhân. Bởi hơn ai hết, Aristotle cổ vũ cho các công dân tự do, biết tư duy, chứ không phải những cá nhân nô lệ cho hệ thống, chỉ biết phục tùng và tuân theo. Ở đây, ông đặt ra mối ràng buộc này, có nghĩa rằng con người không thể tách khỏi cộng đồng người, không có nghĩa rằng cộng đồng có quyền áp đặt cho từng cá nhân.

Hệ thống xã hội mà Aristotle nhắc đến không phải sự toàn trị, mà là luật pháp và công chính. Đó chính là cột trụ quan trọng nhất của nhà nước. Con người bị tách khỏi luật pháp và công chính thì hoàn toàn có thể trở thành “động vật xấu xa nhất. Bất công trở nên tệ hại hơn đó là là sự bất công được vũ trang”. Một nhà nước khi đã mất đi luật pháp và sự công chính, tức là cột trụ sụp đổ, và tổng thể đó đã bị hủy hoại. Những kẻ trái pháp luật trong hệ thống đó đã là đáng sợ, nhưng đáng sợ hơn cả là những kẻ trái pháp luật được trang bị vũ lực, có quyền dẫm đạp lên sự công bằng.

Từ điểm nhìn này, Aristotle đã đưa ra các nguyên tắc trong quản trị từ gia đình đến nhà nước. Tất cả đều dựa trên sự công chính.

  1. Vấn đề người cai trị và kẻ bị trị

Aristotle định nghĩa về một hộ gia đình như sau: “Thành viên của hộ là tất cả những người sống trong cùng một căn nhà, và một hộ đầy đủ gồm có nô lệ và những người tự do”. Đừng vội cho rằng “nô lệ” mà Aristotle nhắc đến là do ảnh hưởng của chủ nghĩa nông nô và vội bài trừ nó. Hãy quay lại với định nghĩa về người tự do và nô lệ của Aristotle, chúng ta sẽ thấy rằng nô lệ vẫn tồn tại cho đến ngày nay, chỉ khác về tên gọi. Nô lệ, đơn giản là những người không có tư duy độc lập.

Ở thời đại của Aristotle, nô lệ là một tài sản sống, và ông xếp mối quan hệ giữa chủ nhân – nô lệ là quản lý tài sản, cùng với các tài sản vô tri khác. Những người tự do luôn cần nô lệ để phục tùng mình. Và nô lệ chỉ không còn cần thiết khi các tài sản vô tri khác có thể tự vận hành. Vậy thì, việc duy trì trạng thái chủ nhân – nô lệ có phải là một việc tự nhiên không? Ông khẳng định: “Sự việc có kẻ sinh ra để cai trị và kẻ sinh ra để bị trị là một sự việc không những cần thiết mà còn mang lại lợi ích nữa; có những kẻ từ khi lọt lòng mẹ đã được lựa ra để cai trị và những kẻ khác bị trị.”

Ông cho rằng theo tự nhiên, con người có linh hồn và thể xác và linh hồn điều khiển thể xác. Chỉ trong vài trường hợp thể xác điều khiển linh hồn, đó là phản tự nhiên, và nảy sinh cái ác. Những người có sức khỏe và làm việc tay chân thì cần phải bị cai trị bởi những người có tư duy, không những trong quy mô hộ gia đinh mà còn là quy mô quốc gia. Một điểm đặc biệt là Aristotle không đóng khung vấn đề tự do – nô lệ trong danh phận và địa vị xã hội. Hết lần này đến lần khác, ông khẳng định, một cách bẩm sinh, người tự do là độc lập và nô lệ thì lệ thuộc. Đó là do tự nhiên sinh ra không phải do xã hội quy định. Và đương nhiên những người tự do bị rơi vào thân phận nô lệ sẽ không ngừng dành lại tự do của mình, cũng như người nô lệ ở trong thân phận tự do thì vẫn cứ tiếp tục làm nô lệ. Và hiện trạng trái tự nhiên này sẽ gây ra nhiều thiệt hại và gây ra thù nghịch, mâu thuẫn quyền lợi.

Xét về bình diện nhà nước, quan hệ cai trị kiểu chủ nhân – nô lệ này là bất khả thi. Bởi vấn đề của một vị vua phải đối mặt không phải là quản lý những người bẩm sinh là nô lệ mà quản lý những người bẩm sinh là người tự do. Và bởi thế, quản lý nhà nước vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, và không phải ai cũng có thể đảm nhiệm công việc này.

 

II – Các mô hình nhà nước lý tưởng

  1. Mô hình của Socrate và Plato

Aristotle cho rằng vấn đề cốt lõi của quản trị nhà nước đó là mức độ công – tư giữa công dân và nhà nước, tức là: “Công dân của một nước hoặc có chung mọi thứ, hoặc không có chung thứ gì hết, hoặc là chỉ có chung một số điều nào đó thôi.” Ông phân tích việc sở hữu tư hoàn toàn là điều không thể, bởi “cơ cấu chính trị là một cộng đồng, và cộng đồng thì tối thiểu phải có một chỗ chung”. Ông cũng rất phản đối mô hình của Socrates được Plato kể lại trong cuốn “Cộng hòa”, đó là một mô hình mà ở đó “mọi công dân đều có chung của cải vật chất, và chung cả vợ và con nữa”

Nguyên nhân phê phán mô hình nhà nước Socrates mà ông đưa ra chính là những vấn đề rất thực tế. Socrates cho rằng một nhà nước hoàn hảo là phải đồng nhất, nhưng sự đồng nhất này đi ngược lại tính đa dạng, và bởi thế nó không còn là quốc gia nữa. Aristotle lập luận: “Để tiến tới đồng nhất thì quốc gia phải trở thành một gia đình, và từ gia đình muốn đồng nhất hơn, thì phải rút lại còn cá nhân”. Tức là cơ hội cho độc tài chuyên chế, tức là “phá hoại quốc gia”. Aristotle khẳng định lại: “Quốc gia không phải chỉ là sự tập hợp của nhiều người mà là nhiều người khác nhau, vì sự đồng dạng không tạo thành quốc gia.” Vì vậy, nhiệm vụ của chính trị là đem lại phúc lợi cho quốc gia chứ không phải biến tất cả mọi người thành đồng nhất.

Hơn nữa, vấn đề quan trọng khiến sở hữu chung làm lụn bại quốc gia, đó là, khi tài sản là của chung thì sẽ không ai bảo quản, giống như cha ông chúng ta thường nói “cha chung không ai khóc”. Và một khi tất cả là của chung, tất cả đều bình đẳng theo cách Socrates muốn thì mối quan hệ gia đình, thân nhân sẽ đổ vỡ, tạo điều kiện cho cái ác và bạo lực hoành hành. Một người sẽ không dám làm điều ác với người thân của mình, nhưng sẽ dễ dàng làm điều ác hơn nếu nạn nhân chỉ đơn thuần là người dưng. Do đó, một quốc gia không nên và chắc chắn không thể là một tập hợp đồng nhất với ý tưởng rằng tất cả đều là của chung.

Sở hữu chung, đặc biệt là sở hữu đất đai sẽ là tiền đề gây ra nhiều bất công. Theo lập luận của những người đề cao sở hữu chung đều lập luận rằng đất không của riêng ai, do đó đất đai nên là sở hữu công. Thế nhưng việc chia chác hoa lợi trên mảnh đất thật không dễ dàng, dễ bị ơi vào tình trạng kẻ làm nhiều mà hưởng ít hoặc kẻ làm ít mà hưởng nhiều. Do đó, tài sản nên thuộc sở hữu tư để mỗi người sở hữu chúng đều phải chịu trách nhiệm.

Và nếu sự chia sẻ diễn ra, thì đó không nên là ép buộc mà đến từ lòng tốt tự nhiên. Aristotle cho rằng “bạn bè chia sẻ với nhau mọi điều”. Ở Athens và Sparta, tình bạn được coi trọng. Người dân đều có sở hữu tư, nhưng luôn dành một phần để bạn bè sử dụng, và một phần khác cho người khác dùng chung. Nếu trên đường đi, ai đó thiếu thốn cái gì, thì có thể tự do lấy thứ đó ở bất cứ đâu trên dường. Điều quan trọng của nhà lập pháp, theo Aristotle là phải “tạo ra lòng từ thiện trong mỗi công dân để họ sẵn lòng chia sẻ với nhau”. Những vấn nạn xảy ra trong xã hội sở hữu tư không phải do hệ thống ấy tạo ra, mà là do bản năng xấu xa của con người chưa được gột bỏ. Và bản năng này, trên thực tế, có nguy cơ bùng phát mạnh mẽ hơn ở những xã hội chỉ có sở hữu công.

Vấn đề là, về mặt tự nhiên, con người sinh ra đã ở vị thế hoặc là cai trị hoặc là bị trị, hoặc là người tự do, hoặc là nô lệ. Xã hội Cộng hòa mà Socrates vẽ ra làm lẫn lộn người cai trị và người bị trị, khiến người bị trị phải tư duy như người cai trị, và người cai trị bị chậm lại bởi cái ách nặng nề của kẻ bị trị khoác lên. Và lúc đó, nông dân không làm việc của nông dân, trí thức không làm việc của trí thức.Tất cả điều đó chính là sự bất ổn không phải chỉ ở giai cấp thấp mà cả ở giai cấp cao hơn. Aristotle có đề cập đến một mô hình khá bình đẳng giữa người cai trị và người bị trị, đó là xã hội tại đảo Crete: “nô lệ cũng được hưởng mọi quyền lợi như chủ nhân, ngoại trừ quyền được học tập thể lực và quyền mang vũ khí”.

Phê phán Socrates, tức là Aristotle đã phê phán chính thầy mình là Plato. Sự phê phán này đến từ logic và thực tiễn chính trị mà thày ông là Plato không có nhiều kinh nghiệm. Trái lại với sự thành công của Aristotle, Plato luôn thất bại trên con đường chính trị. Plato chưa bao giờ tham gia vào công cuộc điều hành một quốc gia, nên những vấn đề ông và thày ông là Socrate đặt ra chỉ đơn thuần là chiêm nghiệm và tính toan. Plato khác với Socrate ở điểm, ông không cực đoan với ý tưởng sở hữu công, ông cho phép sở hữu tư nhưng phải tuân thủ các chuẩn mực và giới hạn. Ví dụ như, người dân không được phép có số tài sản quá gấp 5 lần mức quy định. Aristotle cho rằng khi đặt ra giới hạn này, Plato không lường trước được rằng việc giới hạn tài sản sẽ dẫn đến việc giới hạn con cái hoặc một gia đình sẽ bị bần cùng hóa vì giới hạn tài sản không tương xứng với số con. Cùng thời với Plato và Aristotle, một số thành bang cũng xử dụng phương pháp bình đẳng hóa sở hữu tài sản như vậy với hị vọng sẽ giảm thiểu tội ác. Việc này gây ra hiện trạng là dân chủ quá mức, khiến ai cũng được phép trở thành người cai trị. Hơn nữa, Aristotle cho rằng, tội ác gây ra không phải bởi vì kẻ yếu thế muốn được bình đẳng, mà là vì lòng tham. Và không có mức bình đẳng nào thỏa mãn được họ. Cuộc cải cách chính trị đích thực không phải là tạo ra bình đẳng mà là nâng cao ý thức tinh thần của con người vượt lên trên lòng tham.

  1. Mô hình của Hippodamus

Hippodamus của xứ Miletus là người phát minh ra nghệ thuật quy hoạch thành phố, và đã quy hoạch thành phố Piraeus. Hippodamus có tham vọng là quy hoạch một quốc gia có 10.000 dân. Ông chia làm ba phần cho ba lớp người: dân thợ, nông dân và lực lượng vũ trang. Đất đai cũng chia thành ba phần: đất tế tự, đất nuôi quân, đất sinh sống và canh tác. Pháp luật chia thành ba bộ phận chính là: ẩu đả, gây thương tích và án mạng. Do đó, ông duy trì duy nhất một tòa án tối cao để “tái thẩm những trường hợp tòa dưới đã xét xử không đúng.” Ông đề cao việc ghi chép chi tiết về tình trạng của một vụ xét xử, tức là nếu có tội thì ghi là có tội, vô tội thì ghi là vô tội, không thể đi đến kết luận cũng phải ghi là không thể kết luận. Ông phản đối cách biểu quyết của hội đồng để đi đến kết luận ai đó có tội hoặc không.

Hippodamus đặc biệt tưởng thưởng cho những người đưa ra các sách lược cho quốc gia. Ông cũng chăm lo đến phúc lợi xã hội, đặc biệt là với các gia đình tử sĩ. Tầng lớp quan lại do dân bầu ra, và có trách nhiệm chăm lo cho lợi ích cộng đồng.

Aristotle phê phán cách phân chia công dân thành ba loại, và cho tất cả các quyền bình đẳng. Ông cho rằng không thể có sự bình đẳng giữa ba loại người này. Bởi thợ thuyền và nông dân do không được mang vũ khí, nên không có gì khác là nô lệ của giai cấp chiến binh. Và do yếu thế như vậy, hai loại người kể trên không có quyền lực để tham dự vào chính sự. Cũng vì không thể tham dự vào chính sự, họ không thể trung thành với quốc gia. Ngoài ra, hệ thống tòa án của Hippodamus dẫn đến tình trạng độc tài trong phiên tòa, dễ dẫn đến tham nhũng và chạy án.

Ông không giấu được sự mỉa mai với việc vinh danh người đưa ra sách lược cho đất nước, ông cho đó là rỗng tuếch. Vì đó là cơ hội cho “những kẻ chỉ điểm tố cáo những người có tư tưởng cải cách là âm mưu làm loạn.” Hơn nữa, người ta sẽ dễ dàng đưa ra các đề xuất mà không tính toán đến các khía cạnh thực tiễn trong thay đổi. Aristotle phân tích rằng, thay đổi là tốt trong nghệ thuật và khoa học, nhưng với chính trị đó là vấn đề khác. Bởi một nhà cầm quyền có thể ra chính sách nhưng người dân lại lệ thuộc vào tập quán, và luật pháp cần rất nhiều thời gian để có thể thay đổi tập quán, có thể gây ra rất nhiều xáo trộn.

  1. Mô hình của Sparta, Crete và Carthage

Tại Sparta, nông nô luôn luôn tìm cách nổi loạn, trong khi ở Crete, mối quan hệ chủ nô khá ổn định. Tại sao lại có sự khác biệt này?

Sparta là một thành bang cho phép phụ nữ sống phóng túng. Và khi phụ nữ sống phóng túng  thì nền tảng luật pháp cũng lung lay. Hậu quả của việc này đó là sự sùng phụng của cải, và đặc biệt là người chồng bị vợ chi phối. Mỉa mai là, đây là hiện trạng thường thấy trong các dân tộc hiếu võ, ngoại trừ người Celt và một số dân tộc cho phép đồng tính luyến ái nam.

Một vấn đề nữa khiến Sparta suy yếu đó là cơ quan Giám sát viện. Bình luận về cơ quan này, Aristotle kết luận ngắn gọn như sau: “Đây là cơ quan quyền lực cao nhất, nhưng Giám sát viện lại do toàn dân bầu ra trong đám thứ dân, cho nên các chức vụ này dễ rơi vào tay của những người nghèo túng, và người nghèo thì lại dễ bị hối lộ.” Thậm chí, hội đồng trưởng lão của Giám sát viện lại được duy trì đến hết đời, đây là việc phản khoa học vì khi hội đồng này già đi sẽ không thể quản lý tốt được.

Aristotle cực lực phản đối cơ chế bầu cử của Sparta. Bởi vì những người tài thì bị ấn định vào chức vụ, còn ai muốn được bầu thì phải tự ứng cử. “Ở đây cũng như trong những phần khác của hiến pháp, hiển nhiên nhà lập pháp cho thấy ý định của mình là muốn công dân phải có lòng khát khao danh vọng và chức vụ, và ấn định đó là một tiêu chuẩn mà một trưởng lão cần phải có, vì chẳng có ai tự ra ứng cử nếu không muốn có danh vọng. Tuy nhiên, tham danh và tham lợi, hơn bất cứ nhiệt tình nào khác của con người, chính là động lực đưa đến tội ác.”

Thứ duy nhất Sparta coi trọng đó là đức tính duy nhất: đức tính quân nhân. Còn lại, mọi thứ đều tệ hại. Và đó là lý do khiến ngân khố của Sparta luôn thiếu vì phải lo chiến phí, dân thì trốn thuế, quan chức thì móc ngoặc với các thế lực bên ngoài. Tất cả đều dẫn đến một Sparta ngày càng suy thoái.

Crete khá tương đồng với Sparta. Aristotle cho rằng bản hiến pháp của Sparta là bản sao chép lại của Crete. Điểm đặc biệt của Sparta và Crete đó là cả hai thành bang này thực hiện chính sách bữa ăn chung. Ở Sparta, người dân phải trả tiền cho bữa ăn chung. Còn ở Crete thì mọi hoa lợi tập trung lại rồi được chia làm ba phần: tế lễ, công quỹ và bữa ăn chung. Crete khuyến khích mối quan hệ đồng tính và đàn ông hạn chế ở chung với vợ để giảm dân số. Nhờ thế, dù gặp phải tất cả các rắc rối như ở Sparta nhưng Crete vẫn khôn khéo cheo chống.

Mô hình của Carthage  tốt hơn nhiều so với Sparta và Crete dù có chung một cơ cấu chính trị. “Điều này được chứng minh bởi dân thường Carthage luôn trung thành với hiến pháp và người Carthage chưa bao giờ có cuộc nổi loạn đáng kể nào, và chưa hề bị cai trị bởi một bạo chúa.”

Điểm khác biệt: Sparta lựa chọn người giám sát theo bốc thăm, còn Carthage chọn quan chức theo tài năng. Vua của Carthage không cha truyền con nối như Sparta mà vua được bầu bởi gia tộc nổi trội trong từng giai đoạn, và dựa trên tài năng chứ không phải tuổi tác.

Hiến pháp của Carthage dù được xây dựng dựa trên quyền lợi của quý tộc, nhưng chính quyền khá linh động trong từng hoàn cảnh: hoặc dân chủ, hoặc tinh hoa trị. Tùy từng vấn đề, họ có thể đưa ra công chúng để bàn thảo  hay không. Và khi người dân không đồng tình, người dân có thể tự do phản đối. Tuy nhiên, về căn bản, Carthage vẫn là một mô hình điển hình cho tinh hoa trị.

Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng nền chính trị Carthage cũng không tránh khỏi các khuyết điểm của thể chế tinh hoa trị. Thể chế tinh hoa trị tạo ra cơ hội cho  kẻ giàu dễ dàng mua được các chức vị cao, thậm chí là chức vua. Hơn nữa, hiến pháp cho phép một người giữ nhiều chức vụ, khiến cho công việc chồng cheo và khó hoàn thành nốt, tệ hơn, có thể dẫn đến chuyên quyền. Carthage rất khôn khéo, để tránh các tệ nạn này, họ thực hiện di dân tới định cư ở các thuộc địa. Vấn đề còn lại là ở chỗ, nhà cầm quyền phải đưa ra các phương sách để phòng ngừa nổi loạn từ chính những thuộc địa ấy.

 

III – Các cột trụ của nhà nước

  1. Nhà nước là gì?

Aristotle đưa ra một quan điểm bao quát hơn so với các chính trị gia cùng thời với ông về nhà nước. Nhà nước, theo định nghĩa của ông, “là một hỗn hợp do nhiều bộ phận tạo thành; những bộ phận đó chính là công dân.” Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, ai là công dân. Bởi trong mỗi một thể chế khác nhau, công dân lại khác nhau. Ông cho biết, một công dân ở thể chế dân chủ thì không phải là công dân ở chế độ quả đầu. Ông cho rằng công dân không có nghĩa là một người dân sống ở một quốc gia nào đó. Định nghĩa của Aristotle về công dân là: “Người công dân chỉ cần có một đặc tính duy nhất là người có quyền tham gia vào việc thực thi công lý và đảm nhiệm các chức vụ trong chính quyền.””

Do mỗi chính quyền có một mô hình khác nhau thì công dân lại giới hạn trong các nhóm khác nhau. Ở xã hội dân chủ, người dân thường có thể là công dân. Nhưng ở các xã hội độc tài, dân không có quyền tham chính, nên không thể gọi là công dân. Và nhà nước chỉ hình thành khi “các công dân hợp lại nhằm đạt tới mục đích đời sống”.

Aristotle cũng đặt ra một vấn đề gây nhiều tranh cãi, ngay cả với tình trạng nước ta hiện nay: Một người dân tốt liệu có phải là một công dân tốt hay không? Ông khẳng định hai việc này rất khác nhau. Công dân có trách nhiệm giữ cho xã hội được an toàn, vận hành tốt, giống như người thủy thủ có trách nhiệm giữ cho con tàu phải giữ đúng hải trình và cập bến an toàn. Nên người công dân tốt không nhất thiết phải có đức tính tốt. Nhưng tất cả mọi người nếu là công dân tốt thì nhà nước đó là tuyệt hảo.Tục ngữ cổ Hy Lạp có câu: “Kẻ nào chưa từng vâng lời, không thể trở thành một người chỉ huy giỏi”. Đó là khi “biết cách cai trị như một người tự do và biết cách vâng lời như một người tự do”. Điều này đúng với mọi kẻ mong muốn mình trở thành kẻ cai trị vĩ đại. Bởi không biết tuân phục thì không có cái nhìn bên trong của hệ thống, và bởi thế không hiểu về hệ thống đủ để thay đổi nó. Để trở thành một lãnh đạo giỏi, cần có cả hai đức tính: công dân tốt và người tốt.

 

  1. Chế độ quả đầu, Chế độ dân chủ và Pháp luật

Aristotle phân tích rằng “hiến pháp và chính quyền có cùng một nghĩa, và chính quyền, tức là quyền uy tối thượng trong một nước, phải nằm trong tay của một người, hay của một vài người, hay thuộc về nhiều người.” Những nước mà quyền lực nằm trong tay một người hay nhóm người, theo Aristotle, đó là “hủ bại”. Bởi người dân, chỉ khi là công dân thì mới tham gia vào chính sự.

Hiến pháp có vai trò cốt lõi để xem xét cơ cấu chính quyền. Thông qua Hiến pháp, ta có thể biết được cơ cấu chính quyền nào “gần với cơ cấu lý tưởng nhất, trong hoàn cảnh lý tưởng nhất” và xem cách thực thi hiến pháp trên các quốc gia. Một nhà lập pháp cần phải phân tích và chọn lựa cơ cấu chính trị dựa trên thực tế, bởi theo Aristotle, các nhà tư tưởng chính trị thường không có thực tế.

Aristotle vạch ra một sự phân biệt sẽ gây chấn động với chúng ta ngày nay như sau: “ta thấy có ba mô hình đúng đắn: quân chủ, tinh hoa trị và chính quyền theo hiến pháp; và ba mô hình hủ bại – bạo chúa, quả đầu và dân chủ.” Ông không đồng ý với lập luận của thày ông là Plato rằng “khi mọi thể chế đều tốt thì chế độ dân chủ là chế độ xấu nhất, nhưng khi mọi chế độ đều xấu hết, thì chế độ dân chủ là chế độ tốt nhất”. Về căn bản, các mô hình nhà nước thời đó vẫn được chia thành hai loại: quả đầu (tức nhóm thiểu số nắm quyền) và dân chủ (tức nhóm đa số nắm quyền). Aristotle thì không chia như vậy, ông phân loại theo kiểu: cơ cấu nào tử tế và cơ cấu nào hủ bại

Quyền lực khi tập hợp vào cá nhân thì gọi đó là quân chủ, mà hình thức “hủ bại” là bạo chúa. Quyền lực tập trung vào một nhóm người thì gọi đó là tinh họa trị, và hình thức “hủ bại” là quả đầu. Quyền lực cho nhiều người, ta gọi đó là dân chủ. Nhưng cả ba thể chế này, Aristotle đều cho rằng không hề quan tâm đến quyền lợi của quốc gia, bởi vì “Bạo chúa hủ bại vì nhà vua chỉ chăm lo quyền lợ của vương thất, quả đầu chỉ lo cho quyền lợi của kẻ giàu, và dân chủ chi lo cho quyền lợi của dân nghèo”

Sự khác biệt giữa quả đầu và dân chủ nhiều người cho rằng ở vấn đề thiểu số cầm quyền hay đa số cầm quyền. Sự khác biệt nằm ở tài sản, và sự khác biệt này luôn đặt ra các vấn đề về bình đẳng. Nếu chế độ dân chủ được sử dụng, tức là số đông cầm quyền. Liệu có thể lấy tài sản của người giàu để chia cho người nghèo không? Chắc chắn là không. Và đương nhiên, nếu nhóm giàu có cầm quyền, lòng tham sẽ khiến họ nhân danh nhiều thứ để tước đi tài sản của người dân. Cả hai chế độ này đều bỏ qua một vấn đề cốt lõi trong xã hội, đó là đạo đức. Bởi để một xã hội vận hành, không đơn giản chỉ dựa trên việc nhóm nào cầm quyền, mà còn dựa vào cột trụ đạo đức.

Tuy nhiên, dù không thích tình trạng số đông nắm quyền, nhưng ông vẫn phải thừa nhận số đông sẽ ưu việt hơn thiểu số tài năng. Bởi vì, một tập hợp những người dân làng nhàng, khi được tổ chức tốt sẽ có khả năng thực thi tốt hơn. Đương nhiên, không thể tránh khỏi nguy cơ những kẻ dốt nát sẽ dễ dàng tham chính. Nhưng nếu không cho những kẻ dốt nát ấy tham chính thì chính quyền còn phải đối mặt với nguy cơ nguy hiểm hơn, đó là đẩy những kẻ dốt nát ấy vào tình trạng đối nghịch và phản loạn. Chính quyền dân chủ, tạm thời là ưu việt, nhưng vẫn có rất nhiều vấn đề, mà vấn đề chủ chốt chính là dân trí. Vì đám đông với dân trí thấp sẽ tạo ra một thể chế với các lựa chọn sai lầm, những cuộc đấu tố kinh hoàng.

Vậy thì, dù là chế độ quả đầu hay dân chủ, các quy định về pháp luật là thước đo quan trọng hơn cả. Pháp luật sẽ bù đắp được những khiếm khuyết của dân trí ở chế độ dân chủ và ràng buộc được nhóm lợi ích lam quyền ở chế độ quả đầu. “Từ đó, ta có thể suy ra rằng một chính quyền được thiết lập đúng đắn sẽ nhất thiết có luật pháp công chính, còn những chính quyền được thiết lập sai lầm thì sẽ có bất công.

Cũng giống như mọi nhà chính trị, Aristotle cho rằng luật pháp bình đẳng với tất cả mọi công dân. Nhưng ông cũng cho rằng luật pháp bình đẳng này  chỉ có tác dụng với những người có tài năng hạng trung, ngang bằng với nhau về khả năng. Luật pháp không có tác dụng với người siêu tuyệt, bởi lấy một thứ pháp luật cho người hạng trung để kiểm soát người bậc cao, đó là không thể.

“Nếu có người nào hay một số người nào, dù không đủ số để tạo thành một quốc gia đầy đủ, nhưng tài năng và đức độ siêu tuyệt hơn tất cả mọi người cộng lại, thì kẻ đó hay nhóm người đó không thể được coi là một phần tử của quốc gia nữa. Bởi vì đối với họ đó là điều bất công nếu được đối xử bình đẳng như những người khác có tài năng và đức độ kém hơn. Những người siêu tuyệt như vậy chỉ có thể là thần thánh chứ không thể là người. Như thế, ta thấy rằng luật pháp chỉ liên quan tới những người bình đẳng về tài năng và gia thế, còn đối với những người siêu tuyệt như vậy thì không có luật lệ nào ràng buộc họ. Chính họ là pháp luật. Và thật lố bịch khi có những người đòi làm luật để kiềm chế họ, vì họ sẽ trả lời như trong truyện ngụ ngôn về con sư tử và đàn thỏ của Anthithenes: Khi đàn thỏ đòi bình quyền cho mọi loài súc vật, sư tử hỏi rằng các ngươi có nanh vuốt không mà đòi hỏi bình quyền?’’

Ở các chế độ dân chủ thời cổ Hy Lạp, nhiều người hùng tài ba đã bị đẩy ra nước ngoài. Trong truyền thuyết cũng nhắc đến đoàn thuyền Augonaut đã bỏ Hercules lại, không cho chàng về Argo vì sợ tài năng của chàng sẽ lấn át tất cả. Các chính quyền, dù ở chế độ nào vẫn không thể đưa ra một chính sách hợp lý với các phần tử vượt trội này. Chỉ có hai cách, hoặc đẩy họ đi, hoặc để họ làm vua cho tới chết. Bởi một bậc siêu thuyệt thì xứng đáng được làm vua. (Ở xã hội ngày nay, các bậc siêu tuyệt có lẽ sẽ không thể làm vua, vì họ sẽ bị đưa vào các phòng thí nghiệm để theo dõi và nghiên cứu)

  1. Các mô hình quân chủ

Theo cách nhìn nhận của Aristotle, mô hình quân chủ là mô hình đúng đắn nhất của chính quyền. Nhưng mô hình quân chủ, ngay thời bấy giờ cũng được chia ra làm rất nhiều loại.

Quân chủ được lập nên bởi pháp luật (mô hình tại Sparta) được xem là mẫu mực nhất. Quyền lực của nhà vua không được xem là tuyệt đối, trừ trường hợp xuất chinh hoặc các vấn đề tôn giáo. Vị vua này có thể do kế vị hoặc do dân bầu.

Mô hình quân chủ chuyên chế được nhiều quốc gia phương Đông (ý nói khu vực Lưỡng Hà và Ai Cập) áp dụng. Các vị vua thường coi người dân là nô lệ. Nhưng chế độ này, theo Aristotle đánh giá là ”bền vững và không sợ bị lật đổ vì được xem là hợp pháp và đời cha xuống đời con”. Tại đây, người dân tô vinh vua của họ thật sự, cấm vệ quân cho vua được tuyển từ dân; khác hẳn với chế độ bạo chúa, cấm vệ quân thường là lính đánh thuê và dân bị cưỡng bức tuân phục.

Mô hình quân chủ độc tài (Aesymnetia), tồn tại ở Hy Lạp thời cổ. Mô hình này có thể gọi là “quả đầu qua bầu cử”, tức là người dân bầu lên vị vua của mình, tùy theo nhiệm kỳ, nhiệm vụ hoặc trọn đời.

Mô hình quân chủ thế tập ở Thời đại anh hùng trong khu vực Địa Trung Hải. Các vị vua có truyền thống cha truyền con nối với quyền lực bao trùm. Nhưng dần dần, các vị vua này giao lại một số đặc quyền cho dân, còn mình giữ vai trò tế tự hoặc khi viễn chinh.

 

 

  1. Mô hình Tinh hoa trị và Hiến định

Aristotle dành rất nhiều ca ngợi cho mô hình Tinh hoa trị (ở bản dịch ghi là mô hình quý tộc). Ông định nghĩa mô hình này như sau: “Một chế độ chỉ được gọi là tinh hoa trị một cách đúng đăn nếu đó là một chế độ điều hành bởi những người tài đức nhất, hiểu theo nghĩa tuyệt đối, chứ không phải là những người tài giỏi theo một tiêu chuẩn nào đó.

Mô hình Hiến đình là mô hình phức hợp giữa chế độ quả đầu và chế độ dân chủ. Mô hình Hiến định được quy định bởi hiến pháp chung, thỏa thuận giữa nhóm đa số và nhóm thiểu số. Do đó các chính sách sẽ không hoàn toàn đi theo quyết định của số đông, bởi số đông có thể đưa ra các quyết định sai lầm.

Mô hình Tinh hoa trị là một mô hình hoàn hảo nhưng quá khó để đi theo bởi rất khó để khẳng định tài năng và đức độ của một người vượt trội. Trên thực tế, chưa có một nhà nước nào đạt đến Tinh hoa trị. Thông thường, các nhà nước sẽ chuyển sang hệ thống Hiến định. Hệ thống hiến định hướng con người đến sự trung dung. Tức là, “một đời sống hạnh phúc là một đời sống theo đức hạnh và có đủ phương tiện vật chất để sinh sống, và đức hành là số trung bình cộng hay sự trung dung, thì đời sống trung dung và có số trung bình mà ai củng có thể đạt được phải là đời sống tốt đẹp nhất.

Mô hình Hiến định được xây dựng bởi lớp trung lưu, không quá giàu cũng không quá nghèo. Aristotle phân tích rằng những người quá giàu hoặc quá vượt trội về tài năng sẽ không có khả năng lý trí, dễ phạm tội lớn. Những người quá nghèo sẽ bị lòng tham và sinh tồn chi phối, cũng không thể có khả năng lý trí, dễ trở thành lưu manh. Vì vậy, những người ở giữa, tức giai cấp trung lưu, nên chiếm đa số, như thế tình trạng bình đẳng sẽ dễ dàng diễn ra hơn.

Ông kết luận: “Một nước được thành lập bởi đa số công dân thuộc thành phần trung lưu chắc chắn phải là một nước có chế độ chính trị tốt nhất bởi vì họ cũng giống như những sợi chỉ dệt thành tấm vải quốc gia. Thành phần công dân trung lưu là thành phần ổn định và chắc chắn nhất của một nước, vì họ không như người nghèo thèm thuồng tài vật của hàng xóm, mà cũng không ai thèm thuồng của cải thuộc vào loại thường thường bậc trung của họ, vì người nghèo ham muốn tài vật của người giàu. Họ cũng chẳng thèm âm mưu hại lẫn nhau, mà cũng chẳng có ai thèm âm mưu làm hại đến họ, cho nên , họ sống một đời sống an toàn.” Tất cả những điều ấy khiến giai cấp trung lưu đóng vai trò quyết định. Hoàn hảo nhất là giai cấp trung lưu chiếm đa số, còn nếu không tối thiểu phải đông hơn một trong hai nhóm đối nghịch là giàu và nghèo. Khi ấy, sự quyết định của giai cấp trung lưu sẽ đóng vai trò then chốt trong cán cân chính trị và ngăn không cho các phần tử cực đoan thống trị.

Trên thực tế, mô hình trung dung này cũng rất khó thực hiện. Như Aristotle thống kê thì chỉ có duy nhất một vị vua thực hiện được, có thể là Theramenes, lãnh đạo Athens năm 411TCN. Tại Athens bấy giờ, quyền lực chính trị nằm trong tay 5000 công dân có khả năng tự chiến đấu. Một giả thuyết khác đặt ra thì chế độ trung dung đó chính là do Nhiếp chính  của Alexandre Đại đế là Antipater, bạn thân của Aristotle thực hiện tại Hy Lạp. Tôi cho rằng, người mà Aristotle nhắc đến khả năng là Antipater, bởi vì Antipater và Aristotle thường xuyên chia sẻ tầm nhìn chính trị, nên việc hai người cùng hướng tới mô hình trung dung này là điều dễ hiểu.

 

  1. Các cuộc Cách mạng

Các cuộc Cách mạng, như Aristotle nói, đều đến từ việc các nhóm giàu và nghèo cảm thấy bị đối xử bất bình đẳng. Trong khi ấy, những người có tài xuất chúng mới thực sự là người bị đối xử bất bình đẳng thì họ  lại ít khi nổi loạn. Còn những người xuất thân danh giá thường có xu hướng nổi loạn hơn. Các cuộc Cách mạng được chia làm hai loại. Một là nhằm thay đổi hiến pháp, tức là thay đổi cơ chế và mô hình chính trị. Ở mức độ nhẹ hơn, Cách mạng sẽ góp phần thay đổi một phần nào đó trong Hiến pháp. Hai là loại Cách mạng chỉ nhắm vào những cơ quan của chính quyền.

Đối với quan chức, danh vọng và đấu đá phe cánh là nguyên nhân dẫn đến nổi loạn. Với tình trạng chia bè kết cánh này, các phe sẽ đi ngược lại với hiến pháp để kiếm lợi, đục khoét công quỹ hoặc bóc lột người dân. Một nhóm cảm thấy ghen tị vì danh vọng và quyền lực không bằng nhóm khác có thể dẫn đến nổi dậy.

Một nguyên nhân đối nghịch với tự mãn về danh vọng đó là sự sợ hãi. Sự sợ hãi có thể đến từ hai phía, và thường là sợ hãi mình bị tước quyền, không được đối xử bình đẳng. Người giàu nổi loạn vì sợ đám đông dân chúng sẽ triệt hạ họ hay người nghèo nổi loạn vì sợ chính quyền tước đoạt các quyền lợi… tất cả đều đến từ sự sợ hãi.

Nguyên nhân nghiêm trọng nhất của Cách mạng là do khác biệt sắc tộc. Nên nhớ rằng khu vực Địa Trung Hải là một trong các khu vực phức tạp nhất về sắc tộc trên thế giới. Nếu dân nhập cư nhiều mà chưa có đủ thời gian để các sắc dân học cách tồn tại với nhau thì đó chính là nguyên nhân dẫn đến nổi loạn.

Lãnh thổ có thể cũng là vấn đề dẫn đến nổi loạn. Khi một quốc gia quá rộng và quá nhiều khu tự trị, chính quyền trung ương sẽ không thể thâu tóm được, dần dần hình thành nên sự không tương đồng, và cuối cùng là ly khai, có ly khai là sẽ có nổi loạn.

Nhưng cho dù là nguyên nhân gì thì điểm mấu chốt dẫn đến nổi loạn đa số đều đến từ những va chạm rất nhỏ của các nhóm quyền lợi, như một giọt nước tràn ly. Những cuộc nổi loạn này sẽ thường dẫn tới thay đổi mô hình xã hội một cách đột nngôt, đảo qua giữa hai thái cực. Tình trạng này dễ dàng diễn ra khi tầng lớp trung lưu không đủ đông để giữ cân  bằng.

Ở chế độ dân chủ, tình trạng nổi loạn gây lật đổ thường đến từ sự thật. Ở các xã hội dân chủ, thuật hùng biện và tranh biện rất phát triển. Thuật này là cách thức để các chính trị gia thuyết phục người dân tín nhiệm mình. Nhưng khi sự thật bị lật tẩy, người dân ý thức rằng tất cả chỉ là lừa mị, họ sẽ nổi dậy.

Ở chế độ quả đầu, tình trạng nổi loạn và lật đổ thường đến từ chính nội bộ. Các nhóm quyền lợi trong chính quyền sẽ không bao giờ vừa lòng với những vị trí họ có. Vậy nên, tranh chấp quyền lực chắc chắn sẽ diễn ra.

Ở chế độ tinh hoa và pháp định thì thường bị lật đổ do không giữ được các nguyên tác công chính. Nếu hiến pháp chung của người giàu và người nghèo không được tôn trọng thì nguy cơ bất bình đẳng sẽ diễn ra. Chắc chắn một nhóm sẽ nổi dậy để chống lại nhóm đang thắng thế.

 

  1. Làm thế nào để duy trì độc tài

Chế độ độc tài những tưởng sẽ khiến người dân bức xúc mà nổi dậy, nhưng thực ra các triều đại độc tài đều duy trì khá lâu. Hiện nay, chúng ta đều mặc định rằng độc tài là xấu, còn dân chủ là tốt. Nhưng Aristotle thì khác, ông cho rằng đó chỉ là hai mặt của một vấn đề mà thôi, vì ông cho rằng dân chủ mà cực đoan quá mức sẽ dẫn đến độc tài.

Nguyên nhân một nhà độc tài bị lật đổ chính là lòng oán ghét và sự khinh miệt của người dân. Chính trong chế độ độc tài, người làm vua lại càng phải chăm lo nhiều hơn cho lòng dân. Vậy thì làm thế nào để có được lòng dân?

Aristotle đề xướng: “Quyền lực của nhà vua càng bị giới hạn chừng nào thì quyền lực càng giữ được nguyên vẹn, bởi vì như vậy thì sự cai trị của nhà vua sẽ ôn hòa và không bị dân ghen ghét.

Những nhà độc tài cực đoan sẽ luôn triệt hạ những người vượt trội, có chí khí, cấm hội họp, cấm ăn chung, dạy học và giám sát người dân bằng mọi cách. Văn học nghệ thuật trong xã hội độc tài cực đoan cũng bị cấm. Chính quyền sẽ luôn gây cản trở trong việc quen biết và trao đổi giữa người dân. Từ vấn đề giám sát người dân để ngăn ngừa nổi loạn đã hình thành nên lớp người chỉ điểm, xuất hiện trong các cuộc hội họp. Chính kẻ chỉ điểm này là thứ đáng sợ nhất gây chia rẽ trầm trọng giữa nhà độc tài và người dân, bởi chúng khiến cho người dân e ngại, không dám nói lên sự thật.

Để độc tài duy trì quyền lực tốt hơn, chính quyền luôn phải gây ra chia rẽ dẫn đến tranh cãi trong người dân. Hoặc đơn giản hơn là khiến dân bị bần cùng hóa (nhưng không quá mức), vừa đủ để người dân luôn luôn phải lo kiếm sống mà không có tâm sức để làm loạn nữa. Một xã hội độc tài thường sẽ đề cao thái quá quyền lực của người phụ nữ, để người phụ nữ đóng vai trò chủ chốt trong gia đình, như thế người vợ sẽ báo cáo với chính quyền về tình trạng của người chồng nếu người chồng có ý định làm loạn. Và đương nhiên, không có chỗ cho những tư duy độc lập trong một xã hội độc tài, bởi nhà độc tài chỉ cần những người biết nghe lời và đặc biệt trọng dụng kẻ nịnh hót.

Đúc rút lại nguyên tắc để duy trì độc tài, Aristotle tổng kết các chính sách ấy như sau:

“Đó là làm mất phẩm giá của thần dân, vì những người có ý chí thấp kém thì sẽ chẳng dám âm mưu chống lại ai; tạo sự nghi kỵ giữa đám thần dân với nhau, vì chẳng ai dám lật đổ nhà độc tài cho đến khi người dân bắt đầu có sự tin tưởng lẫn nhau; đó cũng là lý do tại sao nhà độc tài luôn tìm cách đàn áp người tốt vì không những không thể cai trị họ một cách độc đoán, mà còn vì họ luôn trung thành với nhau; nhà độc tài muốn cho thần dân của mình không có khả năng hành động, bởi vì chẳng ai lại đi làm một việc bất khả thi. Nếu họ bất lực thì họ sẽ không nghĩ đến cánh lật đổ nhà độc tài.”

Nếu chỉ bằng các phương thức hạn chế như vậy, nhà độc tài sẽ không thể duy trì quyền lực tốt, họ cần các cách thức khác để tạo hình ảnh, tạo phong thái của một vị vua, chúng ta vẫn gọi đó là “mị dân”. Ví dụ như: quan tâm đến công quỹ và tỏ ra minh bạch công quỹ; thu thuế của người dân là vì lợi ích chung; luôn phải tỏ ra uy nghiêm; tránh say mê phụ nữ và hưởng lạc. Những nhà độc tài thường tỏ ra “là một người phục vụ Thượng Đế một cách nhiệt thành” để lấy niềm tin của dân chúng, khiến dân chúng tin rằng ông ta đang đại diện cho Chúa. Ở các xã hội độc tài, các vị vua cần phải trọng dụng người có tài tới mức các tài năng sẽ trung thành với quốc gia. Đối với cả hai giai cấp giàu nghèo, nhà độc tài luôn tỏ ra là công bằng, và lực lượng nào mạnh hơn thì sẽ được lựa chọn để sát nhập.

Chuyển từ quân chủ sang độc tài, theo như Aristotle nói, là bước đầu dẫn đến sụp đổ. Nhưng độc tài khi không thực hiện các chiêu trò mị dân thì chắc chắn sẽ sụp đổ.

 

IV- Giáo dục và lý tưởng chính trị

  1. Quốc gia lý tưởng

So với các phần trước, thuần túy về mô hình chính trị và lập luận thì ở chương về giáo dục, Aristotle trở lại với các chiêm nghiệm về cuôc sống:

“Những ai muốn tìm hiểu mô hfinh chính quyền nào là mô hình tốt đẹp nhất, trước hết phải xác định xem một cuộc đời đáng sống nhất là một đời sống như thế nào. Khi ta còn chưa biết chắc về điều này, thì ta cũng không biết chắc được cái mô hình chính quyền nào là tốt đẹp nhất. Tuy nhiên trong trật tự của thiên nhiên, ta có thể đoán được những người sống một đời sống tốt đẹp là những người được sống trong một chính thể tốt dẹp nhất mà hoàn cảnh cho phép. Do đó, trước hết, ta nên xác định thế nào là một cuộc đời đáng sống, và xem xét một đời sống như vậy có phải là một đời sốn tốt đẹp nhất cho cả cá nhân và chế độ hay không?

Aristotle kết luận, những người còn độc ác và tham lam thì không thể có cuộc sống hạnh phúc. Chỉ những người có đức hạnh, tức là những người có đời sống tinh thần cao, mới có được hạnh phúc. Vậy thì, một xã hội được gọi là tốt đẹp một cách lý tưởng là xã hội đạt tới các đức hạnh tinh thần và người dân có đầy đủ thể chất, vật chất để thực hiện những đức hạnh đó.

Hạnh phúc của các cá nhân cũng phản ánh lên hạnh phúc của một quốc gia. Khi một quốc gia đề cao sự giàu có của vật chất tức là các cá nhân của quốc gia ấy cũng đang quan niệm rằng sự giàu có mang lại hạnh phúc. Tương tự như thế với uy quyền hay đức hạnh. Một chính quyền khôn khéo sẽ biết cách điều phối các quan điểm về hạnh phúc để thích hợp với tất cả các cá nhân. Và quan trọng, những người nắm chính quyền phải là người đề cao đức hạnh chứ không phải là vật chất hay uy quyền.

Có một mâu thuẫn trong vấn đề đức hạnh, đó là tự do và đời sống chính trị. Luôn có mâu thuẫn giữa hai đời sống này, và phe nào cũng có đủ lập luận để thuyết phục rằng đời sống ấy là đáng sống nhưng Aristotle thì cho rằng người thật sự có tài đức siêu tuyệt là người vừa có đức hạnh vừa có khả năng hành động.

Trong phần này, Aristotle đưa ra một định nghĩa về một quốc gia lý tưởng, rất khác biệt với các tư duy chính trị thời bấy giờ. Quan niệm về một quốc gia tốt của thời bấy giờ về một quốc gia mạnh đó là phải có dân số đông và lãnh thổ rộng lớn, nhưng một quốc gia chỉ có thể phát triển tốt nhất khi nó được tận dụng tất cả các tính năng và vai trò của nó. Một nước đông dân thường dẫn khó cai trị bằng pháp luật và dễ dẫn đến bất ổn. Diện tích lãnh thổ của một quốc gia không cần quá lớn, nhưng đất đai phải đủ để cung cấp nông phẩm và dân sống thoải mái.

Địa thế của một quốc gia được gọi là lý tưởng khi nó đủ hiểm trở để ngăn giặc nhưng đủ thuận tiện cho dân cư đi lại, và đặc biệt là dễ quan sát. Thủ đô của một quốc gia thì cần phải ở chỗ thuận tiện giao thông cả đường bộ và đường thủy, để có thể vừa là trung tâm quân sự vừa là trung tâm thương mại.

Aristotle rất phản đối các quan điểm biến quốc gia của mình thành địa điểm buôn bán của bốn phương. Giao thương buôn bán với nước ngoài quá nhiều sẽ khiến việc cai trị gặp khó khăn và các nguy cơ về quốc phòng. Đương nhiên, một nước có cảng biển sẽ thuận tiện cho phát triển và phòng thủ hơn nhiều so với một nước không có cảng. Việc trao đổi buôn bán các mặt hàng với nước ngoài cũng là điều cần thiết, nhưng không nên để các mặt hàng nước ngoài lấn lướt hàng nội địa. Ông cho rằng: “Thực ra một nước nên trở thành một thị trường để đáp ứng nhu cầu của chính mình, chứ đừng nên trở thành một thị trường cho những nước khác vào buon bán. Những nước trở thành thị trường cho thế giới buôn bán là những nước nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nhưng một nước không nên tìm kiếm những lợi nhuận như vậy, bởi thế, một quốc gia không nên biến mình thành nơi thị tứ cho thế giới”. Thiết kế tường thành ở cảng biến phải có tính phòng thủ cao và các luật lệ phải chặt chẽ để chắn những ảnh hưởng xấu do nước ngoài mang đến.

Chất lượng dân cư cũng là yếu tố Aristotle coi trọng, mà giá trị ông đề cao chính là lòng yêu chuộng tự do và sự khôn ngoan. Ông cho rằng, người dân ở phương Bắc sống tự do nhưng thiếu khôn ngoan, còn người dân ở phương Đông khôn ngoan nhưng thiếu đi nhiệt huyết, vì thế, người Hy Lạp ở giữa, có được đặc tính ở cả hai.

Việc phân chia giai cấp được Aristotle ủng hộ. Ông cho rằng công dân thì nên cho sở hữu đất đai và vũ trang để họ tự bảo vệ đất của mình. Nhưng các công dân đó thì không nên làm nghề nông. Để làm nghề nông, tốt nhất là đi bắt người chủng tộc khác thấp kém hơn, quen với đời sống nô lệ để làm nghề nông.

Cũng trong chương này, ông giới thiệu rất nhiều các mô hình về quy hoạch đô thị theo kiểu Hippodamus, quy hoạch chiến lũy, hải cảng, cách thiết kế các địa điểm ăn chung…v…v… Nhưng quan trọng hơn hết, để điều hành các đô thị ấy, pháp luật cần phải công chính.

Ông không cho rằng một nhà cầm quyền nên kéo dài quyền lực của mình mà nên thay đổi theo nhiệm kỳ, vì trên thực tế người cai trị đa phần cũng chẳng khá hơn người dân là mấy. Thay phiên nhau làm quan, làm dân thường… là cách thức để hệ thống vận hành trơn tru hơn, tránh tình trạng kẻ bất tài nắm quyền lâu dài.

Aristotle khác với Hippodamus, ông luôn chia sự vật và sự việc thành hai thái cực. Tinh thần con người, theo ông được chia thành lý trí và lý tính (thường chúng ta hay nhầm hai khái niệm này với nhau). Lý trí là tư duy, còn lý tính cao hơn cả lý trí bởi đó thứ dẫn hướng hành động và tư duy. Đời sống con người cũng được chia làm hai loại là ”công việc và thư nhàn, hay chiến tranh và hòa bình”. Việc một ai đó lựa chọn hành động như thế nào là dựa trên sự dẫn dắt của lý tính. Người dân trong một nước lý tưởng phải có khả năng chiến đấu trong chiến tranh và khả năng thư nhàn trong hòa bình, họ phải vừa là một công dân tốt và hướng tới việc là một người tốt.

  1. Giáo dục

Aristotle đồng ý với các nhà lập pháp khác về vấn đề giáo dục tuổi trẻ nên là mối quan tâm hàng đầu, vì khi giáo dục xuống cấp thì cơ cấu chính trị sẽ bị phá vỡ. Nền giáo dục là công cụ của nhà cầm quyền để phục vụ mô hình chính trị, và do đó phản ánh toàn bộ đặc tính của mô hình ấy. Do đó, một nền chính trị tốt chắc chắn sẽ có mô hình giáo dục tốt.

Aristotle cổ vũ mô hình giáo dục công lập và phản đối giáo dục tư nhân, vì giáo dục tư nhân không nhắm đến “những điều mang lại lợi ích chung cho mọi người”. Không thể lập luận rằng vì mỗi cá nhân khác biệt nên giáo dục khác nhau được, vì một phần tử không thể tách khỏi cộng đồng. Vấn đề ở chỗ, nền giáo dục công lập này nên được tổ chức như thế nào và hướng tới cái gì. Người dân kỳ vọng nền giáo dục hướng tới điều hữu ích trong cuộc sống, nhưng có phải điều hữu ích nào cũng nên được dậy hay không? Có điều hữu ích hạ tiện và có điều hữu ích cho người tự do. Aristotle cho rằng chỉ nên dậy cho trẻ những ngành nghệ thuật hay khoa học giúp cho thể chết và tâm trí trở nên cao cả. Ông bài trừ việc dậy những gì giúp trẻ con sau này lớn lên đi làm nghề nhận lương, vì cho rằng những thứ đó làm thui chột cả thể chất và tinh thần.

Thời bấy giờ ở Hy Lạp thường có 4 môn học: đọc viết, thể dục, âm nhạc và hội họa. Trong 4 môn học này, đọc viết và vẽ được xem là hữu ích cho cuộc sống, còn thể dục là để rèn luyện lòng can đảm. Riêng âm nhạc, ông cho biết, nhiều người vẫn hoài nghi về độ hữu ích, thậm chí còn bị xem là giải trí. Aristotle khẳng định lại, âm nhạc rất cần thiết, cần thiết cho sự thư nhàn, và “nguyên tắc đầu tiên của mọi hành động là sự thư nhàn””, thậm chí, sự thư nhàn còn quan trọng hơn cả nghề nghiệp. Thư nhàn là lúc để có những trải nghiệm tinh thần và hướng tới điều cao cả hơn. Môn đọc viết không nên chỉ coi như việc hữu ích trong xã hội mà là phương tiện để thu thập thêm nhiều kiến thức. Tương tự như vậy, hội họa không chỉ dừng ở phân biệt thật giả để tránh bị lừa gạt khi mua bán, mà nên tập cho chúng khả năng quan sát và trình độ thẩm mỹ. Bởi thế, nếu cái học chỉ hướng tới sự hữu ích thi vẫn cứ là thấp kém, cái học phải hướng tới tự do và thăng hoa.

Aristotle còn dành hẳn một chương để bàn về âm nhạc, về việc tại sao phải giáo dục âm nhạc trong nhà trường. Âm nhạc với ông, không phải đơn thuần là trò “tiêu khiển và thư giãn” như “ngủ nghê và uống rượu”. Ông cho rằng “âm nhạc dẫn đến việc hình thành đức hạnh, vì âm nhạc có thể uốn nắn được tâm trí và làm cho ta cảm được niềm vui thú thực sự”, và hơn cả thế, “âm nhạc làm tâm hồn ta hân hoan”. Đó chính là “cứu cánh hoàn hảo”, là lý do quan trọng để bộ môn âm nhạc tiếp tục ngự trị nền giáo dục. Ngoài ra, “Tiết điệu và âm điệu của âm nhạc mô phỏng được sự dịu dàng và phẫn nộ, cũng như sự can đảm và twj chủ, cũng như tất cả những tính cách tương phản với đức tính này, những tính cách rất giống với tình cảm thực sự ta từng cảm nhận được, vì khi nghe những âm điệu như vậy, tâm hồn ta cũng thay đổi theo.”

Điểm đặc biệt của các chương bàn về giáo dục của Aristotle đó là ông nói rất nhiều về âm nhạc và chơi đùa. Ngay sau chương bàn về âm nhạc, ông lại dành một chương khác về việc có nên dậy trẻ con tập nhạc và chơi đùa không. Aristotle đồng ý với việc dậy trẻ em thực tập nghệ thuật, nhưng ông phản đối việc trẻ em tập đến mức độ chuyên nghiệp, bởi nghệ thuật chuyên nghiệp thì không hướng con người ta đến giá trị tinh thần nữa mà là để mua vui. Và chính sự chuyện nghiệp ấy lại tạo nên sự thô lậu.

Đọc các chương về giáo của của Aristotle, ta có thể tổng kết lại rằng, mô hình lý tưởng của ông dường như không phải chỉ thiên về trau dồi kiến thức mà quan trọng là tăng khả năng thẩm mỹ và đặc biệt là bay bổng cùng âm nhạc. Các ý tưởng về việc giáo dục âm nhạc của ông đã kết thúc  cuốn “Chính trị luận” ở một thang bậc cao vời vượt trên cuộc sống.

Hà Thủy Nguyên