Home Dịch thuật Dịch thơ Hoa hạ túy – Lý Thương Ẩn

Hoa hạ túy – Lý Thương Ẩn

Tầm phương bất giác tuý lưu hà,
Ỷ thụ trầm miên nhật dĩ tà.
Khách tán tửu tỉnh thâm dạ hậu,
Cánh trì hồng chúc thưởng tàn hoa.

*Bản dịch của mình:

Say ánh chiều tà bãi cỏ thơm
Tựa cây chìm bóng giấc hoàng hôn
Nửa đêm sực tỉnh người đâu tá
Đuốc rọi tàn hoa bước cô đơn.”
———
Đang viết Thiên địa phong trần Tập 2, chợt nổi hứng dịch bài thơ này!

 

Hà Thủy Nguyên dịch

Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc Vân – Lý Bạch

Bỏ ta người đi Ngày qua ngày ai người giữ lại Lòng ta rối bời Hôm nay sao ưu phiền tới vậy. Gió thu muộn dặm tiễn nhạn bay Đành ở lầu cao chuốc rượu say Cốt cách Kiến An văn Bồng Lai (*) Chàng Tạ cao nhã vẫn còn đây. (**) Lòng tràn thi hứng thơ bay bổng Muốn leo trời cao hái vầng trăng Rút đao chém nước nước vẫn chảy, Nâng chén tiêu sầu sầu thêm sầu, Sống giữa cõi đời không

Hữu Sở Tư – Lý Hạ

Năm cũ bên đường hát biệt ly Hôm nay đất Thục người vẫn đi Tháng hai bên rèm hoa đùa gió Trước thềm ngàn dặm trúc lâm li Tiếng đàn như lòng thiếp Đứt nối hết đêm này Nhớ chàng ngựa trắng mang cung gỗ Nơi đâu mà chẳng gió xuân bay? Lòng chàng há nặng như đá tảng Thân thiếp nào mãi vẻ hồng hoa. Trời biếc sông xa ngang đêm tàn Sóng bạc đầu cuộn chẳng cầu sang. Gió Tây chưa thổi sầu

Đăng Cao – Đỗ Phủ

"Đăng Cao" là một tuyệt tác của Đỗ Phủ, bài thơ chạm đến sâu thẳm trong tinh thần độc giả đến nỗi có rất nhiều bản dịch hay. Nhưng rồi thì tôi vẫn dịch một bài "Đăng Cao" cho chính mình, bởi đó là cảm ngộ của mình. Gió thốc trời cao vượn hú sầu Bến trong cát trắng chim liệng mau Hiu hắt lá rụng hoài không ngớt Cuồn cuộn sông trôi mãi về đâu Thu rầu vạn dặm nơi đất khách Thân tàn

Khúc Giang – Đỗ Phủ

Kỳ 1 Một mảnh hoa bay xuân đã phai Gió bay vạn nẻo khách sầu ai Tàn hoa cứ ngắm cho lòng thỏa Say rượu chớ từ kẻo đau hoài Trên sông nhà nhỏ chim làm tổ Bên vườn mả cũ ngựa nằm dài Ngẫm đời phải lẽ nên hành lạc Cớ gì danh lợi vướng thân đây.   Kỳ 2 Mang áo xong chầu vội về ngay Đầu sông ngày ngày thỏa trân say Tiền rượu nợ nần ai mà chẳng Cõi đời thất

Lậu thất minh – Lưu Vũ Tích

Núi nào bởi cao, tiên ở thành danh Nước nào tại sâu, rồng ngụ mà linh Gian nhà quê mùa, đức vang tiếng lành Biếc thềm vệt rêu phủ, rèm thưa cỏ chìm xanh Bậc túc nho cười nói, phường tục tử bặt thanh Khẽ gảy cây đàn mộc, tụng Kim cang Chẳng đàn sáo để bận tai, không án thư mà nhọc mình Nam Dương có lều cỏ, Tây Thục có nguyên đình (*) Khổng Tử hỏi: “Có chi mà quê mùa?” Hà Thủy