Home Dịch thuật Dịch thơ Lậu thất minh – Lưu Vũ Tích

Lậu thất minh – Lưu Vũ Tích

Núi nào bởi cao, tiên ở thành danh
Nước nào tại sâu, rồng ngụ mà linh
Gian nhà quê mùa, đức vang tiếng lành
Biếc thềm vệt rêu phủ, rèm thưa cỏ chìm xanh
Bậc túc nho cười nói, phường tục tử bặt thanh
Khẽ gảy cây đàn mộc, tụng Kim cang
Chẳng đàn sáo để bận tai, không án thư mà nhọc mình
Nam Dương có lều cỏ, Tây Thục có nguyên đình (*)
Khổng Tử hỏi: “Có chi mà quê mùa?”

Hà Thủy Nguyên dịch

Bản Hán Việt:

Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh;
Thuỷ bất tại thâm, hữu long tắc linh.
Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh.
Đài ngân thượng giai lục, thảo sắc nhập liêm thanh.
Đàm tiếu hữu hồng nho, vãng lai vô bạch đinh.
Khả dĩ điều tố cầm, duyệt Kim kinh.
Vô ty trúc chi loạn nhĩ, vô án độc chi lao hình.
Nam Dương Gia Cát lư, Tây Thục Tử Vân đình.
Khổng Tử vân: “Hà lậu chi hữu?”

*Lều cỏ của Gia Cát Lượng ở vùng Nam Dương, Dương Hùng (hiệu Tử Vân) vào thời Hán cất một ngôi đình hóng mát ở Tây Thục.

Lạc hoa – Lý Thương Ẩn

Lầu cao khách xa rồi Góc vườn hoa tả tơi Lưa thưa đường uốn khúc Tiễn bóng chiều xa xôi Thương tâm nào nỡ quét Trông cảnh lại ngóng người Nỗi lòng ngày xuân cạn Đẫm lệ áo này thôi Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Cao các khách cánh khứ, Tiểu viên hoa loạn phi. Sâm si liên khúc mạch, Điều đệ tống tà huy. Trường đoạn vị nhẫn tảo, Nhãn xuyên nhưng dục quy. Phương tâm hướng xuân tận, Sở đắc thị

Thu lai – Lý Hạ

Xào xạc ngô đồng tráng sĩ rầu Đèn lụi vạc kêu áo lạnh đâu. Sách tre nằm đó nào ai thấy Bụi phủ mọt xông chẳng người lau. Đêm thu lòng bận thêm đau quặn Mưa lạnh hồn vương khóc người xưa. Mộ thu quỷ khóc thơ ngài Bảo Máu hận ngàn năm thấm ngọc sâu. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Đồng phong kinh tâm tráng sĩ khổ, Suy đăng lạc vĩ đề hàn tố. Thuỳ khan thanh giản nhất biên thư, Bất

Bồ tát man – Lý Bạch

Rừng xa tịch mịch lụa mây vờn Núi trơ một dải rợn thê lương Lầu cao bóng chiều buông Trên lầu người buồn thương Thềm ngọc hoài trông ngóng Về tổ chim chiều liệng Về nhà đường nơi đâu Đình lại quán nối nhau. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Bình lâm mạc mạc yên như chức, Hàn san nhất đới thương tâm bích. Minh sắc nhập cao lâu, Hữu nhân lâu thượng sầu. Ngọc giai không trữ lập, Túc điểu quy phi cấp.

Hữu Sở Tư – Lý Hạ

Năm cũ bên đường hát biệt ly Hôm nay đất Thục người vẫn đi Tháng hai bên rèm hoa đùa gió Trước thềm ngàn dặm trúc lâm li Tiếng đàn như lòng thiếp Đứt nối hết đêm này Nhớ chàng ngựa trắng mang cung gỗ Nơi đâu mà chẳng gió xuân bay? Lòng chàng há nặng như đá tảng Thân thiếp nào mãi vẻ hồng hoa. Trời biếc sông xa ngang đêm tàn Sóng bạc đầu cuộn chẳng cầu sang. Gió Tây chưa thổi sầu

Cảm phúng kỳ 3 – Lý Hạ

Bản dịch của Hà Thủy Nguyên Núi Nam đìu hiu thế Mưa quỷ tưới cỏ suông Thu kinh kỳ khuya khoắt Gió qua bao kẻ già. Con đường chiều chạng vạng Cây sồi gió xoay xoay Trăng ngụ cây đứng bóng Ánh bạc trùm cô sơn Đuốc đêm đón kẻ mới, Đóm lập lòe cõi ma. Bản Hán Việt Nam sơn hà kỳ bi, Quỷ vũ sái không thảo. Trường An dạ bán thu, Phong tiền kỷ nhân lão. Đê mê hoàng hôn kính, Niểu