Home Dịch thuật Dịch thơ Thiện tai hành kỳ 1 – Tào Phi

Thiện tai hành kỳ 1 – Tào Phi

Không còn mượn lời chinh phụ như hai bài Yên Ca Hành, Thiện Tai Hành của Tào Phi mang tính hiện thực. Đó là hiện thực của một chiều thu đông lạnh lẽo chốn sa trường, trong cảnh thiếu thốn nơi hoang vắng. Trong bầu không khí hiu hắt lúc chiều tàn ấy, nỗi cô quạnh và lạc lõng lại trỗi dậy, trong tâm trạng của kẻ tha hương. “Yên ca hành” xây dựng hình ảnh của người chinh phu lưu lạc không nhà, và ở đây, Tào Phi tự ngẫm đời chiến chinh của mình vốn chỉ là cảnh “vô phương”.

Rất nhiều lần tôi nghĩ về lý do Tào Tháo sủng ái Tào Thực hơn Tào Phi, liệu có phải vì Tào Phi thực sự kém tài hay võ biền như “Tam Quốc Diễn Nghĩa” vẫn kể? Hay bởi vì ông chưa bao giờ tỏ ra tán thưởng những chiến tích của Tào Tháo mà luôn tỏ một lòng mỏi mệt trước chiến chinh. Cảm xúc phản chiến này bao trọn bầu không khí trong thơ Tào Phi, không chỉ ở một đôi bài, thật kỳ lạ!

Lên núi hái rau
Chiều tàn hiu hắt
Sơn khê gió nổi
Sương đẫm áo rồi
Trĩ hoang kêu loạn
Vượn hú tìm nhau
Nhớ trông quê cũ
Sầu chất thành cao!
Núi cao có vách
Cây lớn có cành
Ta buồn không chốn
Người nào biết đâu
Đời người sống tạm
Lo lắng mà chi?
Ta nay chẳng cười
Năm tháng qua mau
Nước cuồn cuộn chảy
Thuyền bập bềnh trôi
Mặc nước vần xoay
Như người khách lạ
Quất roi ruổi ngựa
Áo nhẹ choàng thân
Năm đi năm đến
Lòng biếng sầu lo.

Hà Thủy Nguyên dịch

*Bản Hán Việt:

Thướng sơn thái vi,
Bạc mộ khổ ky.
Khê cốc đa phong,
Sương sương triêm y.
Dã trĩ quần cẩu,
Viên hầu tương truy.
Hoàn vọng cố hương,
Uất hà luy luy!
Cao sơn hữu nhai,
Lâm mộc hữu chi.
Ưu lai vô phương,
Nhân mạc chi tri.
Nhân sinh như ký,
Đa ưu hà vi?
Kim ngã bất lạc,
Tuế nguyệt như trì.
Thang thang xuyên lưu,
Trung hữu hành chu.
Tuỳ ba chuyển bạc,
Hữu tự khách du.
Sách ngã lương mã,
Bị ngã khinh cừu.
Tải trì tải khu,
Liêu dĩ vong ưu.

*:Nhạc phủ thi tập” ghi tác giả bài này là Tào Tháo, “Tống thư” phần “Nhạc chí” ghi là của Tào Phi. Riêng mình nghĩ có khả năng là của Tào Phi hơn, vì Tào Tháo thơ văn không có cái không khí phản chiến như vậy.

Các bạn có thử so sánh với văn phong trong một bài Thiện tai hành khác của Tào Tháo: https://www.thivien.net/Tào-Tháo/Thiện-tai-hành-kỳ-2/poem-b1fXZ6zcojddT24qShYwtw

Tạp thi kỳ 1 – Tào Phi

Hà Thủy Nguyên dịch Miên man đêm thu lặng Lành lạnh gió bắc hàn Trở mình không chợp mắt Choàng áo bước lang thang Loanh quanh đi lại đứng Sương trắng ướt áo rồi. Cúi nhìn sóng nước lạnh Ngẩng xem trăng sáng soi Thiên Hán về tây cả Tam Ngũ chiếu giữa trời Côn trùng buồn rỉ rả Cô nhạn liệng về nam Rầu rầu cơn buồn thảm Dằng dặc nhớ quê nhà Nguyện tung bay đôi cánh Nào đâu cầu vượt sông Nương

Điếu can hành – Tào Phi

Đông việt hà tế thuỷ, Dao vọng đại hải nhai. Điếu can hà san san, Ngư vĩ hà si si. Hành lộ chi hiếu giả, Phương nhị dục hà vi? Bản dịch thơ của Hà Thủy Nguyên: Nước sông đổ về Đông Xa ngắm bờ biển lớn Cần câu kìa mảnh mảnh Đuôi cá kìa rung rung Lại qua đều ưa thích Sao chẳng đớp mồi thơm? "Điếu can hành" là một khúc nhạc phủ đã thất truyền lời gốc. Tích là: Bá Thường Tử

Yên ca hành kỳ 1: Thu Phong – Tào Phi

Người đời khen thơ Tào Thực, nhưng với mình tài thơ của Thực không thể so với Phi: So về tình không lai láng bằng, so về hình ảnh thơ không đẹp đẽ bằng, so về thủ pháp để lại cho đời sau cũng còn thua xa. Có lẽ người ta yêu thích thơ Tào Thực chỉ vì ông này thường ngày thích rượu chè với các văn nhân, chứ không đau đáu đại nghiệp như Tào Phi. “Tam quốc diễn nghĩa” chê bai Tào

Yên ca hành kỳ 2: Biệt nhật – Tào Phi

Biệt nhật hà dị hội nhật nan, Sơn xuyên du viễn lộ man man. Uất đào tư quân vị cảm ngôn, Ký thư phù vân vãng bất hoàn. Thế linh vũ diện huỷ hình nhan, Thuỳ năng hoài ưu độc bất than. Cảnh cảnh phục chẩm bất năng miên, Phi y xuất hộ bộ đông tây. Triển thi thanh ca liêu tự khoan, Lạc vãng ai lai tồi tâm can. Bi phong thanh lệ thu khí hàn, La duy từ động kinh Tần hiên. Ngưỡng

Đan tế nhật hành – Tào Phi

Hà Thủy Nguyên dịch Ráng hồng khuất vầng dương Cầu vồng trời cao buông Rào rào hang suối tuôn Ào ào cây lá rụng Chim lẻ lạc bầy rồi Điệu buồn ám tầng mây Trăng hết tròn lại khuyết Hoa chẳng nở hai lần Xưa nay đều vậy cả Ôi biết nói gì đây. *Bản Hán Việt: Đan hà tế nhật, Thái hồng thuỳ thiên. Cốc thuỷ sàn sàn, Mộc lạc phiên phiên. Cô cầm thất quần, Bi minh vân gian. Nguyệt doanh tắc xung,