Thấy bạn Nguyễn Hoàng Dương dịch cả chùm thơ Tào Tháo, mình cũng hứng chí dịch thơ Tào Phi. Người đời khen thơ Tào Thực, nhưng với mình tài thơ của Thực không thể so với Phi: So về tình không lai láng bằng, so về hình ảnh thơ không đẹp đẽ bằng, so về thủ pháp để lại cho đời sau cũng còn thua xa. Có lẽ người ta yêu thích thơ Tào Thực chỉ vì ông này thường ngày thích rượu chè với các văn nhân, chứ không đau đáu đại nghiệp như Tào Phi. “Tam quốc diễn nghĩa” chê bai Tào Phi và ghen tài đố kị với Tào Thực, nhưng xét về tài thì Phi hơn hẳn Thực cả về văn chương lẫn chính trị.
Bài Yên ca hành- Thu phong này là bài thơ thất ngôn đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc trung đại. Tản Đà dịch bài này sang tiếng Việt bằng thơ lục bát, đọc cũng hay, nhưng làm mất đi vị trí quan trọng trong lịch sử văn học của bài thơ. Mình bèn dịch lại, lúc dịch không khỏi không nhớ đến “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn.
Thu phong tiêu sắt thiên khí lương,
Thảo mộc dao lạc lộ vi sương.
Quần yến từ quy nhạn Nam tường,
Niệm quân khách du tứ đoạn trường.
Khiểm khiểm tư quy luyến cố hương,
Quân hà yêm lưu ký tha phương.
Tiện thiếp cung cung thủ không phòng,
Ưu lai tư quân bất cảm vong.
Bất giác lệ hạ chiêm y thường,
Viện cầm minh huyền phát “Thanh thương”.
Đoản ca vi ngâm bất năng trường,
Minh nguyệt hạo hạo chiếu ngã sàng.
Tinh Hán tây lưu dạ vi ương,
Khiên Ngưu, Chức Nữ dao tương vọng,
Nhĩ độc hà cô hạn hà lương.
Dịch thơ:
Gió hiu thu lạnh khí bạc màu
Cỏ cây rơi rụng đọng sương thâu
Én kêu trời nam nhạn chao mình
Nhớ chàng rong ruổi lòng đứt đoạn
Dằng dặc lòng chàng nhớ quê xa
Cớ sao trôi nổi kiếp không nhà.
Thiếp phận đơn côi căn phòng trống
Buồn dâng nhung nhớ chẳng nguôi lòng
Nào biết lệ rơi đầm xiêm áo
Mượn khúc “Thanh thương” nguyện tỏ lòng
Đoản khúc sao thỏa lòng nhung nhớ
Vằng vặc đầu giường trăng vãi vương
Dòng Hán trời tây đêm còn tuôn
Chàng Ngưu nàng Chức còn xa ngái
Duy chàng thơ thẩn nhịp cầu chi?
Dịch nghĩa:
Gió thu hiu hiu lạnh khí trời bạc màu
Cây cỏ tiêu điều móc giăng thành màn sương
Chim én gọi bầy nhạn chao liệng về Nam
Nhớ chàng phương xa mà lòng thiếp đớn đau
Lòng chàng nhớ quê dằng dặc
Thế mà vẫn phải tha phương
Tiện thiếp một mình nơi phòng trống
Nỗi buồn nhớ chàng không thể nguôi ngoai
Nào biết lệ đã rơi ướt đầm xiêm áo
Chỉ biết mượn khúc Thanh Thương để tỏ nỗi lòng
Nhưng khúc nhạc ngắn quá không thể giãi bầy
Đầu giường thiếp trăng sáng vằng vặc
Dòng sông Hán trên trời còn đổ về tây thì đêm còn dài (*)
Sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ còn chưa gặp nhau
Thế mà chàng vẫn đứng trên cầu một mình ngẫm ngợi điều gì?
(*) Trong câu này, khi Tào Phi nhắc đến “Tinh Hán” ý muốn nhắc đến Thiên Hà ám chỉ bầu trời đêm. Tuy nhiên, từ “Hán”, vừa có ý chỉ dòng sông Hán, vừa chỉ nhà Hán, lại vừa chỉ Thiên Hà, nên mình nghĩ rằng ở đây tác giả chơi chữ, vừa muốn nói đến nhà Hán, vừa muốn ám chỉ bầu trời đêm.
