Home 2017 Tháng 9 / page 3

Ta mặc

Ta mặc áo trần gian
Sông đời trầm chậm chảy
Bóng gì in đáy nước
Hồn ta hay áo ta?

Ta mặc đời trầm luân
Giương cung vào thăm thẳm
Sao trời rụng dưới sân
Lẫn bụi đời quái lạ

Tạ mặc đồng phục hận
Tắm hồn giữa máu tươi
Vọng ký ức xa xôi
Ta tìm ta trinh khiết

Ta mặc ta mỏi mệt
Ta mặc ta chán chường
Ta chìm giữa khói sương
Cất khúc sầu ai nhớ

Ta cởi áo trần gian
Hình hài nay cũng thoát
Chẳng bóng in đáy mộng
Đời cũng bỏ mặc ta.

Hà Thủy Nguyên

*Tranh minh họa: Y Xuy Ngũ Nguyệt

Bài thơ nằm trong tập thơ NẰM XEM SAO RỤNG

Home 2017 Tháng 9 / page 3

Thét ca

Ta thét dương trùng dương – Bão

Ta thét vân điệp vân – Giông

Ta thét ta ảnh lồng bóng

Ta thét ta. Đau!

 

Vạn khối thét tuôn tràn mặt đất

Trùng dương xa uất ức đọng hồn đau

Mặn hơi máu, mặn hơi đời kiếp kiếp

Đứt gãy thôi, tầng vực thẳm vô minh

 

Ta thét máu cuộn sóng tràn

Ta thét mây vỡ tình tan

Ta thét ta thấm đời thế tục

Ta thét ta. Hoang!

 

Nén tiếng thét giữa đời tục lụy

Ta nghe ta vọng từ cõi vô thanh

Bão giông thét gời gợi ai đang thét

Ta thét ta. Dậy! Dậy mau! Bay!

 

Thân ta nằm dài. Căn phòng trống. Thinh không.

Các ngươi hãy trông…

Hồn ta sấm động cuối chân mây

Hồn ta mưa tẩy đời nhơ nhuốc

Hồn ta khắp cõi ngự về đây…

 

Hà Thủy Nguyên

*Tranh minh họa của danh họa Aivazovsky.

Bài thơ nằm trong tập thơ “NẰM XEM SAO RỤNG”

Home 2017 Tháng 9 / page 3

4000 NĂM LỊCH SỬ CỦA CHÚA – THUỞ BAN ĐẦU (2): THẦN THOẠI SÁNG THẾ Ở LƯỠNG HÀ

Dường như con người ở thế giới cổ xưa tin rằng chỉ có thể bằng cách dự phần trong đời sống linh thiêng họ mới có thể trở thành con người đích thực. Đời sống trần tục vốn dĩ mỏng manh và mờ nhạt do tính hữu hạn, nhưng nếu như con người mô phỏng hành vi của các vị thần, họ sẽ thể hiện được sức mạnh và công hiệu to lớn hơn. Do đó, người ta tin rằng các vị thần đã chỉ dẫn cho con người cách xây dựng các đô thị và đền thờ, đơn thuần chỉ là những bản sao chép của gia đình đích thực ở cõi giới thần thánh của họ. Thế giới linh thiêng của các vị thần – như đã được kể lại trong thần thoại – không chỉ là một lý tưởng để con người khao khát mà còn là nguyên mẫu cho hiện hữu của con người; đó là mẫu gốc hay nguyên mẫu tạo nên mô hình cho cuộc sống hạ giới của chúng ta. Những gì diễn ra trên mặt đất do đó được tin rằng là bản sao của những gì ở thế giới thần thánh, sự nhận thức này đã tạo nên thần thoại, các tổ chức xã hội và cúng tế của hầu hết các nền văn hóa từ xa xưa và đến nay vẫn còn ảnh hưởng đến các xã hội mang nhiều tính truyền thống hơn trong thời đại ngày nay. (1). Ví dụ như, ở Iran cổ đại mỗi con người hoặc vật hữu tình trong thế giới trần tục (getik) đều được tổ chức để phóng chiếu thế giới nguyên mẫu của thực tại thiêng liêng (menok). Đây là một quan điểm vốn rất khó cho chúng ta để có thể nhận định ở thế giới hiện đại, kể từ khi chúng ta nhận ra sự tự trị và tính độc lập như những giá trị tối cao của con người. Tuy nhiên kiểu “chơi no sớm lo kiệt lực” (tác giả sử dụng câu thành ngữ post coitum omne animal tristis est với nghĩa mỉa mai xu hướng bốc đồng rồi sớm rã đám giống như sau cơn hứng thú làm tình thì các bộ phận sinh dụng của cả nam và nữ đều tiu nghỉu) đã thể hiện một kinh nghiệm chung: sau một chốc lát háo hức và cuồng nhiệt có thể đoán trước, chúng ta thường cảm thấy rằng chúng ta đã để vuột mất điều gì đó vĩ đại hơn mà chúng ta không thể nắm bắt được. Sự bắt chước thần thánh vẫn là một ý niệm tôn giáo quan trọng: nằm xuống trong lễ Sabbath hay rửa chân cho ai đó vào ngày thứ Thứ Năm Maundy – những hành động vốn vô nghĩa đối với chúng ta – giờ đây lại có ý nghĩa và linh thiêng bởi vì người ta tin rằng những hành động này đã từng được từng được Chúa thực hiện.

Một tín ngưỡng tâm linh tương tự cũng được biểu hiện ở Lưỡng Hà cổ đại. Tại thung lũng Tigris – Euphrates, ngày nay thuộc Iraq, người Sumer – chủ nhân của các nền văn hóa vĩ đại Oikumene (xã hội văn minh) đã định cư từ khoảng 4000 BC. Trong những đô thị Ur, Erech và Kish của mình, người Sumer đã tạo ra các văn bản viết trên đất sét, xây những những tòa tháp thờ tự kỳ vĩ được gọi là “ziggurats” và phát triển một nền luật pháp, văn chương và thần thoại đáng ngưỡng mộ. Không lâu sau đó, khu vực này đã bị xâm chiếm bởi những người Akkad thuộc văn hóa Semit, những người đã tiếp thu ngôn ngữ và văn hóa của người Sumer. Sau đó, vào khoảng 2000 BC, những người Amorites đã xâm lược nền văn minh Sumer – Akka và biến Babylon thành thủ phủ. Cuối cùng, khoảng 500 năm sau đó, những người Assyria đã chiếm đóng gần khu vực Ashur và còn xâm lược Babylon trong suốt thế kỷ thứ 8 BC. Truyền thống Babylon cũng ảnh hưởng đến thần thoại và tôn giáo của Canaan, nơi trở thành Vùng Đất Hứa của người Israel cổ đại. Giống với những người khác ở thế giới cổ đại, những người Babylon gắn liền những thành tựu văn hóa của họ với các vị thần, bởi các vị thần sẽ hé lộ đời sống của họ cho các tổ tiên huyền bí của họ biết. Vì vậy Babylon tự cho bản thân là hình ảnh phản chiếu của thiên đường, với mỗi đền thờ là một bản sao của cung điện trên thiên đường. Sự liên kết này với thế giới thần thánh được tưởng niệm và duy trì hàng năm trong các Lễ hội Năm Mới vốn được tổ chức từ thế kỷ 17 BC. Được tưởng niệm tại các thành phố thần thánh của Babylon trong suốt tháng Nisan, tức tháng 4 của chúng ta, lễ hội tạo nên quyền lực của vị vua và thiết lập sự trị vì của ông ta trong những năm sau đó. Tuy nhiên sự ổn định chính trị chỉ được duy trì chừng nào sự cai trị của các vị thần mang đến trật tự cho thế giới hỗn loạn vào lúc sáng thế, vẫn còn tiếp diễn và hiệu quả. Mười một ngày linh thiêng của lễ hội do đó đã vạch sẵn cho những người tham gia khoảng thời gian tránh xa điều thô tục để đi vào thế giới linh thiêng và vĩnh cửu của các vị thần bằng các nghi lễ thờ cúng. Con dê tế thần sẽ bị giết để chấm dứt một năm đã già và đang chết dần; sự sỉ nhục công khai của nhà vua và sự lên ngôi của người đứng đầu lễ hội nhằm thế chỗ của nhà vua tái hiện sự hỗn loạn lúc khởi thuỷ; và một trận chiến giả tái diễn trận chiến của các vị thần chống lại các thế lực hủy diệt.

Những hành động mang tính biểu tượng này vì thế có giá trị nghi lễ; chúng cho phép người Babylon đắm mình trong sức mạnh (hay mana) linh thiêng cai trị nền văn minh vĩ đại của họ. Nền văn hóa chẳng khác nào một thành quả mong manh luôn lâm nguy do những thế lực gây hỗn loạn và tan rã. Và buổi chiều ngày thứ tư của lễ hội, các thầy tư tế và người diễn xướng đi thành hàng dọc vào Thánh đường nơi Thiên Chúa ngự và ngâm Enuma Elish, bài trường thi tưởng niệm chiến thắng của các vị thần trước sự hỗn loạn. Câu chuyện này không phải kể lại những gì hiện hữu ở thế giới mặt đất mà là một sự tượng trưng đa nghĩa để gợi nên một huyền tích vĩ đại và giải phóng năng lượng linh thiêng. Diễn đạt thành văn về sự sáng thế là không thể, do đó không ai có thể biểu thị các sự kiện không thể hình dung nổi này: thần thoại và biểu tượng vì vậy chỉ là cách phù hợp để mô tả chúng. Tóm lại, Enuma Elish giúp chúng ta thấu rõ tinh thần đã tạo ra Chúa Sáng Thế nhiều thế kỷ sau đó. Dù cho chuyện kể về sáng thế trong kinh thánh và kinh Koran khác nhau đến đâu, những thần thoại kỳ lạ này không bao giờ biến mất hoàn toàn nhưng chỉ quay trở lại dòng lịch sử của Chúa ở thời kỳ khá muộn, được khoác lên đặc trưng của tôn giáo nhất thần. Câu chuyện bắt đầu với sự khai sinh của các vị thần – một chủ đề mà, như chúng ta sẽ thấy, rất quan trọng với bí giáo Do Thái và Islam. Ở thuở ban đầu, như Enuma Elish kể lại, từ hoang địa ẩm ướt và vô định hình vốn là một vật chất linh thiêng, các vị thần hiện ra từng đôi một. Trong thần thoại Babylon, mà sau này có trong Kinh Thánh, không hề có sự sáng tạo từ hư không, một ý tưởng hoàn toàn lạ lẫm đối với thế giới cổ đại. Trước cả sự tồn tại của các vị thần và con người, những vật thể thô linh thiêng này đã tồn tại từ vĩnh cửu. Khi người Babylon cố hình dung vật thể linh thiêng nguyên thủy này, họ đã nghĩ rằng nó tương tự với vùng đầm lầy hoang dã ở Lưỡng Hà, nơi những trận lũ thường xuyên đe dọa quét sạch những thành quả yếu ớt của con người. Trong Enuma Elish, sự hỗn độn không phải một khối rực lửa và sôi sục mà là một mớ lộn xộn ẩm ướt nơi vạn vật thiếu ranh giới, sự xác định và danh tính:

When sweet and bitter
mingled together, no reed was plaited,
no rushes muddied the water,
the gods were nameless, natureless, futureless.

Thế rồi ba vị thần trồi lên từ vùng đất hoang nguyên thủy: Apsu (được xác định là nước ngọt của các dòng sông), vợ của ông là Tiamat (biển mặn) và Mummu, Tử cung của hỗn độn. Tuy nhiên những vị thần này có thể nói là nguyên mẫu nguyên sơ và thấp cấp cần được cải thiện. Những cái tên “Apsu” và “Tiamat” có thể được dịch là “vực thẩm”, “hư không” hay “không đáy”. Chúng thể hiện sự trì trệ không định hình của sự vô tướng nguyên thủy và chưa có được danh tính rõ ràng.

Thế là, các vị thần khác cũng theo cách đó mà tách ra từ chính họ trong một quá trình được biết đến như sự khai sinh vốn rất quan trọng trong dòng lịch sử của Chúa. Các vị thần mới xuất hiện, một người được sinh ra từ người khác, từng đôi một, có được sự định nghĩa nhiều hơn những vị trước giống như sự tiến hóa thần thánh đang diễn ra vậy. Đầu tiên là Lahmu và Lahamn (tên họ nghĩa là “bùn”: nước và đất trộn lẫn với nhau). Sau đó là Ansher và Kishar, được định danh trang trọng với đường chân trời phân cách bầu trời và mặt biệt. Rồi Anu (các thiên đường) và Ea (mặt đất) tới và dường như hoàn thiện quá trình. Thế giới thần thánh có bầu trời, những dòng sông và mặt đất, phân chia và tách biệt khỏi nhau. Nhưng sự sáng tạo mới chỉ bắt đầu: các thế lực gây hỗn loạn và tan rã chỉ có thể bị ngăn chặn bằng một cuộc đấu tranh đau đớn và không ngừng nghỉ. Những vị thần trẻ tuổi, năng động đã nổi lên chống lại cha mẹ của họ, nhưng dù cho Ea đã có thể vượt qua Apsu và Mummu, ông vẫn không thể tiến lên chống lại Tiamat, người đã sản sinh ra một loạt các con quái vật biến hình để chiến đấu thay cho mình. May mắn thay Ea đã sinh ra một đứa trẻ tuyệt vời: Marduk, Thần Mặt trời, sinh linh hoàn hảo nhất của dòng dõi thần thánh. Tại cuộc gặp của Hội đồng các vị thầnMarduk hứa sẽ chiến đấu chống lại Tiamat với điều kiện rằng ông trở thành người cai trị của họ. Tuy nhiên, ông chỉ có thể tiêu diệt Tiamat với rất nhiều khó khăn và sau một trận chiến dài, nguy hiểm. Trong thần thoại này, sự sáng tạo là một cuộc đấu tranh, đạt được vất vả bằng việc chống lại vô vàn thử thách.

Thế rồi, Marduk đứng trên xác chết khổng lồ của Tiamat và quyết định tạo ra một thế giới mới: ông chia đôi cơ thể của bà thành hai phần là bầu trời và thế giới con người; tiếp đó ông đưa ra các luật lệ để giữ gìn trật tự của vạn vật. Mệnh lệnh phải được thực thi. Tuy nhiên, chiến thắng vẫn chưa hoàn tất. Nó phải được tổ chức lại bằng các phụng vụ năm này qua năm khác. Do đó, các vị thần tụ họp nhau tại Babylon, trung tâm của mặt đất mới, và xây dựng một ngôi đền nơi các nghi lễ tế thần diễn ra. Kết quả là một ziggurat vĩ đại để tôn vinh Marduk, ‘ngôi đền trần thế, biểu tượng thiên đường vô hạn’ đã ra đời. Khi công việc đã hoàn thành, Marduk ngồi ở vị trí tối cao và các vị thần hô lớn: “Đây là Babylon, thành phố thân yêu của thần thánh, ngôi nhà yêu dấu của ngài!” Sau đó, họ thực hiện phụng vụ ‘từ ấy vũ trụ có được cấu trúc, thế giới ẩn giấu được san phẳng và các vị thần ấn định vị trí của mình trong vũ trụ {3}. Những luật lệ và nghi lễ này ràng buộc tất cả mọi người; ngay cả các vị thần cũng phải quan sát bản thân đảm bảo sự sống còn của tạo hóa. Câu chuyện thần thoại thể hiện ý nghĩa bên trong của nền văn minh, theo cách người Babylon nhận thức. Họ biết rất rõ rằng tổ tiên của họ đã chế tạo ra ziggurat nhưng câu chuyện của Enuma Elish đã khai thác niềm tin của họ về việc công trình sáng tạo ấy chỉ có thể được duy trì nếu nó liên quan đến quyền lực thần thánh. Phụng vụ mà họ cử hành và Năm Mới đã có từ trước khi con người ra đời: nó được viết sẵn trong bản tính của vạn vật mà ngay cả các vị thần cũng phải tuân thủ. Thần thoại cũng thể hiện niềm tin rằng Babylon là một nơi linh thiêng, là trung tâm của thế giới và nhà của các vị thần – một khái niệm quan trọng trong hầu hết các hệ thống tôn giáo cổ đại. Ý tưởng về một thành phố thiêng liêng nơi con người dường như có thể chạm tới được quyền lực linh thiêng, cội nguồn của toàn bộ sự tồn tại và tính hiệu lực, đã trở nên quan trọng trong ba tôn giáo nhất thờ Thượng Đế của chúng ta.

Cuối cùng, bằng ý nghĩ sau cùng, Markduk tạo ra con người. Ông chiếm được Kingu (kẻ phối ngẫu vụng về của Tiamat, được bà ta tạo ra sau khi Apsu bị đánh bại), giết hắn và nặn ra người đàn ông đầu tiên bằng cách trộn thần với tro bụi. Các vị thần chứng kiến trong sự kinh ngạc và ngưỡng mộ. Tuy nhiên, có chút hài hước trong câu chuyện thần thoại về nguồn gốc của nhân loại, đó là không lẽ nào đỉnh cao của sự sáng tạo lại bắt nguồn vị thần ngu ngốc và kém cỏi nhất trong số các vị thần. Thế giới tự nhiên, đàn ông và phụ nữ có cùng bản chất và bắt nguồn từ cùng vật chất thần thánh. Thị kiến ngoại giáo ấy lại mang tính nhất thể. Các vị thần không bị tách rời khỏi nhân loại trong một phạm vi hữu thể riêng biệt: Thượng Đế không khác biệt về bản chất với con người. Do đó không cần một sự khải thị đặc biệt của các vị thần hay một bộ luật thần thánh ban xuống mặt đất từ trên cao. Các vị thần và con người cùng chia sẻ những khó khăn, sự khác biệt duy nhất đó là các vị thần quyền năng và bất tử hơn

(Còn tiếp)

Người dịch: Hà Thủy Nguyên

Tác giả: Karen Amstrong

(Trích “A History of God – The 4000 year quest of Judaism, Christianity and Islam)

Mua sách tiếng Anh tại đâyhttps://www.hangcao.info/san-pham/1-history-god-4000-year-quest-judaism-christianity-islam-karen-amstrong/

Home 2017 Tháng 9 / page 3

LANG GIA BẢNG – QUYỀN MƯU VÀ HAI NỬA CHÍNH TÀ (3): NỮ NHÂN TRƯỚC THỜI CUỘC

“Lang Gia Bảng” không chỉ đưa ra  sự va chạm giữa các hình mẫu nam nhân một tay dàn xếp đại sự, mà còn tạo ra một không gian mà trong đó các hình mẫu nữ nhân khi đứng trước thời cuộc lại có những phản ứng khác nhau. Nữ nhân trong “Lang Gia Bảng” tuyệt nhiên không sến súa, không hành hạ các nam nhân đến mức thổ huyết như các bộ truyện ngôn tình thường thấy của Trung Quốc. Nữ nhân của phim này đều là những người biết cân nhắc đại sự, bất kể chính tà.

Những nữ nhân hi sinh vì đại cuộc

“Lang Gia Bảng” thực sự là một bộ phim về các nguyên mẫu lý tưởng. Những nhân vật nữ chính và thứ chính của phim đều thực sự hoàn hảo, và hoàn hảo theo những cách khác nhau. Một trong các cách hoàn hảo ấy chính là tấc lòng vì đại cuộc hiếm có ở các nữ nhân thông thường.

Sự xuất hiện ấn tượng nhất phải kể đến quận chúa Nghê Hoàng. Nghê Hoàng không phải một cô gái ngây thơ cành vàng lá ngọc. Nàng là điển hình cho mẫu phụ nữ mạnh mẽ, lo toan vạn sự của phủ Vân Nam Vương, lại có sức mạnh “giương cung bạt kiếm” chẳng thua kém nam nhân. Nàng được xếp thứ 7 trong bảng danh sách các cao thủ võ lâm cho Lang Nha các xếp hạng. Tưởng như, một nhân vật mạnh mẽ như thế sẽ có ham hố quyền lực, ám ảnh trả thù. Nhưng không, Nghê Hoàng không ham hố quyền lực. Mọi hành xử của nàng là vì trách nhiệm với gia tộc. Nàng giữ khoảng cách với hoàng hậu và các vương phi trong cung, bởi tự bản thân thấy rằng chẳng có chuyện gì để nói với họ. Những người phụ nữ như Nghê Hoàng, họ sống vì người khác nhưng không vì trách nhiệm mà mất đi bản tính của mình. Sự mạnh mẽ của Nghê Hoàng được đẩy lên đến đỉnh điểm vào lúc cả triều đình đang bị vây hãm bởi quân làm phản Dự Vương. Thật thú vị khi thấy cảnh “mỹ nhân cứu anh hùng”, vung thương phi ngựa diệt trừ phản tặc. Qủa là một cảnh kỳ thú trong phim ảnh Trung Quốc.

Ẩn sâu vẻ ngoài uy vũ chốn sa trường của Nghê Hoàng là một trái tim nhạy cảm. Khi Lâm Thù, người mà nàng đã dành trọn trái tim khi còn trẻ, bị vu oan là phản tắc rồi có tin chàng qua đời, Nghê Hoàng vẫn giữ một mối tình chung. Bao nhiêu năm, nàng không hủy hôn ước, vẫn khắc ghi chàng trong tim. Lâm Thù trở về với danh phận Mai Trường Tô, dù đã thay đổi hình hài, nhưng chính nàng là người nhận ra đầu tiên. Cảnh tượng Nghê Hoàng nhận ra thân phận thật sự của Mai Trường Tô, nước mắt tuôn trào đến nghẹn lời, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ bình tĩnh. Thật sự, đó là điều hiếm có ở nữ nhân. Chỉ những người đã từng xông pha trận mạc mới có được cái bản lĩnh ấy. Nàng ở bên cạnh Mai Trường Tô, không một sự đòi hỏi đáp trả bao nhiêu năm xa cách, không một cảnh ân ái, chỉ đứng bên cạnh ngậm ngùi nhìn chàng lo toan thế cục. Mai Trường Tô bệnh tình tái phát, không thể giữ được mạng sống, nàng cũng chỉ có thể rơi nước mắt trong thinh lặng mà không thể thốt lên lời. Nỗi lòng cuồn cuộn ẩn sau sự chừng mực ấy chỉ có thể có được ở những nữ nhân không bị tầm thường hóa. Lưu Đào vào vai Nghê Hoàng quả là đúng với những gì tôi mường tượng khi đọc “Lang Gia Bảng”. Có điều, tiểu thuyết “Lang Gia Bảng” cho Nghê Hoàng cái kết viên mãn quá, viên mãn đến mức làm hỏng hình ảnh Nghê Hoàng. Kịch bản phim có lý hơn, Nghê Hoàng chấp nhận rằng lần này Lâm Thù – Mai Trường Tô đã ra đi thật sự. Người xem hẳn sẽ cảm thấy tiếc cho đôi nam nữ chính hữu duyên vô phận này. Nhưng tiếc thì cứ tiếc, vẻ đẹp của Nghê Hoàng sáng rực trong sự dở dang ấy.

Một hình mẫu gần giống với Nghê Hoàng đó là Hạ Đông. Hạ Đông không thống lĩnh quân đội như Nghê Hoàng, mà từ nhỏ được nuôi dưỡng và huấn luyện để phục vụ cho Huyền Kính Ti – một nơi giống cơ quan tình báo của triều đình. Nếu Nghê Hoàng tránh xa mọi âm mưu thủ đoạn của triều đình thì Hạ Đông lại ở trong vũng bùn nhơ đó, ngày ngày đối mặt, thậm chí từng nhúng chàm, thế nhưng chưa bao giờ đánh mất phẩm giá của mình. Hạ Đông cùng với hai sư huynh Hạ Xuân, Hạ Thu luôn luôn quy phục sư phụ Tôn Hạ Giang của mình. Hạ Đông có một người chồng là phó tướng của Xích Diệm quân, bị cho là đã tử trận tại Mai Lĩnh năm đó. Hạ Đông luôn đau khổ vì chồng, lại ôm mối hận cho rằng gia đình Lâm gia đã ám toán phu quân của mình vì sợ âm mưu làm phản bại lộ. Đó chỉ là màn kịch Hạ Giang bày ra để đổ tội cho Xích Diệm và che giấu sự thật với Hạ Đông. Hạ Đông ôm mối thù nhưng lại không để mối thù che mờ mắt. Từng bước, từng bước, chứng kiến Mai Trường Tô lật mặt nạ của Hạ Giang, Hạ Đông bừng tỉnh và đứng về phía chính nghĩa. Ân tình với vi sư, nàng gác lại. Không phải nàng bất nghĩa, mà nàng thấu rõ rằng mình chỉ là quân cờ dưới tay Hạ Giang để Hạ Giang có thể lợi dụng đi làm việc hại người. Nhưng Hạ Đông may mắn hơn Nghê Hoàng, nàng có cơ hội để được hạnh phúc khi người chồng của nàng quay trở về, kể cả khi người ấy không nói được và hình hài bị biến đổi dị dạng. Nghê Hoàng không có cơ hội ấy, nàng chỉ có những giây phút ngắn ngủi ở bên Mai Trường Tô mà thôi.

Cung Vũ là một hình mẫu đối nghịch với Nghê Hoàng và Hạ Đông. Nàng yểu điệu thướt tha, xinh đẹp kiều diễm, luôn nhu mì dịu dàng, luôn tìm mọi cách để được ở bên người mình yêu. Nàng là một nữ gián điệp dưới trướng Mai Trường Tô, là hậu nhân của Kiệt tộc (kẻ thù của Mai Trường Tô), một ca nương nổi tiếng kinh thành. Cung Vũ luôn xuất hiện với tấm áo lụa mỏng tựa tiên nga. Người đời ít ai đề phòng nàng. Ngay cả Tần Ban Nhược, một nữ gián điệp sừng sỏ của Kiệt tộc cũng bị nàng thuyết phục. Nàng vào sinh ra tử vì Mai Trường Tô chỉ vì yêu chàng, những mong được chàng một lần đối xử nhu mì. Nàng biết trái tim Mai Trường Tô chỉ có Nghê Hoàng, nàng cũng chỉ có thể chấp nhận. Sự chấp nhận ấy không phải vì nàng không ghen tuông, không ích kỷ, mà bởi nàng chứng kiến tất cả những đau đớn của Mai Trường Tô, bởi nàng hiểu tính mạng của Mai Trường Tô như ngọn đèn trước gió, vậy thì so đo tranh giành sủng ái cũng để làm gì. Nàng chỉ có dốc hết tâm sức vì chàng mà thôi. Thế nên, Cung Vũ hi sinh vì thế cục không phải vì nàng mưu định thiên hạ, mà nàng vì người đàn ông nàng yêu say đắm. Chọn Cung Vũ hay chọn Nghê Hoàng, quả thực cũng khó cho Mai Trường Tô. Thôi thì, chết đi âu cũng là lựa chọn dễ dàng hơn cả.

Tĩnh Phi có phần nào cũng giống Cung Vũ, chỉ khác ở đối tượng mà vì họ bà sẵn sàng hi sinh. Cung Vũ hi sinh vì Mai Trường Tô, Tĩnh Phi cũng làm mọi việc vì Tĩnh Vương. Tĩnh Phi vốn bản tính hiền lương, không muốn tranh đấu chốn hậu cung. Bà chưa bao giờ được Lương Đế sủng ái, lại vì vụ án Xích Diệm năm xưa mà bị Lương Đế bỏ bê. Dù thân cô thế cô trong cung, nhưng bà vẫn sẵn lòng giúp các chị em chịu thiệt thòi do không biết cư xử. Thế nhưng, khi Tĩnh Vương nói với mẹ: “Con muốn tranh ngôi thái tử”, tức thì Tĩnh Phi đã thay đổi. Khi ấy, ta mới nhận ra rằng bà thông minh đến mức nào. Mọi âm mưu cung đều không qua mắt được bà. Thậm chí, chưa từng gặp Lâm Thù mà chỉ nhìn cuốn sách Tĩnh Vương mượn của Mai Trường Tô bà đã có thể dựa trên phân tích mà đoán ra Mai Trường Tô chính là Lâm Thù. Một cách tự nhiên, bà đoạt được sự sủng hạnh của Lương Đế. Cũng không phải mất nhiều tâm sức hay lời ngon tiếng ngọt, bà chỉ cần biết cho Lương Đế thứ mà các phi tần khác như Hoàng hậu và Việt quý phi không làm được. Tĩnh Phi không mè nheo đòi hỏi, chỉ lặng lẽ chuẩn bị các loại thức ăn, loại nước tắm có thuốc bổ nhằm bồi bổ cho sức khỏe của Lương Đế. Thuở trẻ trung, vị vua nào cũng ham mê nữ sắc, chứ đã có tuổi, cái cần lại là sự yên bình tĩnh dưỡng và một bàn tay chăm sóc. Đó lại là điều mà Tĩnh Phi giỏi hơn hẳn. Lương Đế tin cẩn bà, giao cho bà bí mật thờ cúng Thần Phi (một sủng phi họ Lâm của Lương Đế đã qua đời do liên đới đến vụ án Xích Diệm). Sự việc này bị Hoàng hậu phát hiện, làm om sòm, lại còn định kết tội bà. Thế nhưng, Tĩnh Phi vẫn không lên giọng nói rằng bà thờ Thần Phi theo lệnh Lương Đế, mà nhận tội hết về mình. Vậy là bà lấy được hoàn toàn niềm tin của Lương Đế. Lương Đế là kẻ đa nghi, điều ông ta cần nhất chính là một phi tử nhất nhất nghe lời mình, sẵn sàng bảo vệ mình. Từng bước một, Tĩnh Phi thuyết phục được Lương Đế giao quyền Thái tử cho Tĩnh Vương mà không hề mở miệng cầu xin lấy một lời. Tĩnh Phi quả thực là một phi tử cao tay, không cầu xin mà có tất cả. Sự cao tay của người thiện lương hơn hẳn sự cao tay của kẻ âm hiểm, bởi người thiện lương biết chừng mực, còn kẻ âm hiểm thì không.

Nữ nhân tham gia chính trị, dù là vì trách nhiệm của bản thân hay vì người mình yêu quý, rốt cuộc, điều quan trọng nhất chính là ở điểm gác lại thói quen ích kỷ và những ham muốn bình an yên ổn, vinh hoa phú quý lại. Nữ nhân đi giữa ngày tháng gió tanh mưa máu của triều đình giữ mình đã khó, bảo vệ người thân càng khó hơn, nếu không có óc phân tích và sự thâm trầm hơn người thì tuyệt đối không thể vượt qua được. Những hạng nữ nhân ồn ào, âm hiểm khiến thế cục rối ren, phần lớn đều là vì bản thân mà thôi.

Những nữ nhân tham quyền đoạt vị

Triều chính của Lương quốc bị thao túng bởi tay Thái Tử và Dự Vương, nhưng kẻ thao túng đằng sau hai vị hoàng tử ấy lại chính là Việt quý phi và Hoàng hậu. Việt quý phi được Lương Đế sủng ái, nhờ thế con trai được phong làm Thái tử. Nhưng Thái tử vô đức vô năng, không giỏi âm mưu, nên mọi sự dàn xếp đều do một tay Việt quý phi thực hiện.  Việt quý phi kiêu ngạo vì sự sủng ái, coi thường quy chế của hậu cung, coi thường Hoàng hậu, vậy là tự bà ta tạo ra thế đối lập cho mình. Hoàng hậu không có con trai nên coi Dự vương (vốn dĩ mồ côi mẹ) như con đẻ, muốn ủng hộ Dự vương lên ngôi. Nếu Việt quý phi không quá tự mãn, chịu cúi đầu trước Hoàng hậu thì có lẽ Hoàng hậu đã vui lòng ủng hộ Thái tử. Đó là cái ngu dốt thứ nhất của Việt quý phi. Thái tử dù sao cũng là thái tử, không dễ để bị phế, nhưng mẹ con Việt quý phi không an phận, luôn tìm cách  để tranh quyền và triệt hạ các thế lực khác, đến mức gây ra các sự việc kinh động. Thái tử mất đi chức vị chẳng qua cũng vì sự tư vấn sai lầm của Việt quý phi. Đó là cái ngu thứ hai. Hai cái ngu căn bản ấy đã kết thúc cho sự sủng ái của Lương Đế với bà ta. Hoàng hậu thâm hiểm hơn, thế nhưng cũng không khá hơn. Khi Tĩnh Phi được sủng ái, bà ta tìm mọi cách để triệt hạ Tĩnh Phi, mà không tìm hiểu xem sức hút của Tĩnh Phi thực sự nằm ở đâu. Cái đầu của bà ta không có gì khác ngoài tranh giành. Thời điểm bà ta đồng ý cho Dự Vương làm phản lật đổ Lương Đế thì bà ta cũng đặt dấu chấm hết cho tương lai của mình. Vậy nên, nữ nhân tham lam quá rất khó thành công. Thêm nữa, hai người đàn bà này, họ quá ồn ào bên tai Lương Đế, tranh giành hết điều này đến điều khác, tị nạnh từng li từng tí, dần dần họ là Lương Đế chán. Chính sự ồn ào của họ đã tạo điều kiện cho Tĩnh Phi được sủng ái vậy. Thế đó, phụ nữ muốn làm việc lớn thì không nên ồn ào.

Trái ngược với sự ồn ào của hai vị phi tử là Tần Ban Nhược. Tần Ban Nhược là mẫu nữ nhân tham gia chính trị với một lòng phục thù, không có chút tình cảm cá nhân, không chút thương tình, và đương nhiên cũng không từ thủ đoạn. Tần Ban Nhược muốn đưa Dự Vương lên ngôi để phục quốc chứ không hết lòng vì Dự Vương. Cô ta và nữ nhân Kiệt tộc của cô ta, ôm ấp mộng phục quốc mà sẵn sàng ám toán, hại người, không chút nương tình. Sư tỉ của Tần Ban Nhược muốn rút lui, đem lòng yêu người khác, cô ta cũng lợi dụng tình yêu ấy để được lợi cho mình. Cái thứ yêu nước bị đẩy tới mức thù hận đã biến toàn bộ nữ nhân của Kiệt tộc thành cỗ máy giết người. Nhìn hệ thống gián điệp của Kiệt tộc và các hành vi của Tần Ban Nhược, ta không khỏi rùng mình ghê sợ những đám đông được nuôi dưỡng bằng thù hận. Rốt cuộc, sự thù hận ấy cũng thất bại. Trăm phương nghìn kế không đọ lại được sự minh bạch các bí mật. Một khi sự thật bị phanh phui, những quyền lực dựa trên âm mưu sẽ sụp đổ.

Kết luận

Xoay quanh những nam nhân một tay dàn xếp thế cục và những nữ nhân có thể dùng nhan sắc và khả năng quyến rũ của mình để lật ngược tình thế, còn có rất nhiều những nữ nhân khác bị cuốn vào vòng xoáy tranh quyền đoạt vị. Họ không mong cầu quyền lực, họ không có tài năng tuyệt đỉnh, họ chỉ muốn được sống bình yên cùng người yêu thương. Họ là Lỵ Dương công chúa, là phu nhân của Dự Vương, là sư tỉ của Tần Ban Nhược… Họ không thể thay đổi số phận của họ, nhưng cũng không muốn mình trở thành quân cờ. Họ là những người đau đớn nhất. Đau đớn bởi họ yếu đuối, đau đớn bởi họ bất lực. Tôi dành phần kết luận để nói về những nữ nhân luôn muốn xa rời thế cuộc những mong yên bình, nhưng lại trở thành nạn nhân của thế cuộc. Họ là điển hình cho mấy câu thơ của Nguyễn Du: “Đau đớn thay, phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” vậy.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng 9 / page 3

LANG GIA BẢNG – QUYỀN MƯU VÀ HAI NỬA CHÍNH TÀ (2): TĨNH VƯƠNG TIÊU CẢNH DIỄM

Tĩnh Vương – hình mẫu chính trị gia hoàn hảo

Nếu Mai Trường Tô là đại diện cho những quân sư áo vải ốm yếu ngồi trong màn trướng mà định thiên hạ thì Tĩnh Vương  là nguyên mẫu điển hình cho bậc quân vương chí nghĩa chí tình. Điều đặc biệt trong việc khắc họa nhân vật Tĩnh Vương đó là tác giả tiểu thuyết cũng như các nhà làm phim vượt ra khỏi khuôn mẫu quân vương thông thường của chính trị cổ điển Trung Quốc. Nếu bạn để ý kĩ từng hành  động của Tĩnh Vương, các bạn sẽ thấy Tĩnh Vương thoáng cái dáng dấp của các chính trị gia có xu hướng pháp quyền, lấy mọi giá trị chuẩn mực làm điều tin tưởng.

Tĩnh Vương không phải người con được yêu quý nhất của Lương Đế, mẫu thân của chàng ta cũng không được sủng ái, lại không có nhu cầu đua tranh. Tĩnh Vương lớn lên trong phủ Kỳ Vương (người con đã từng được Lương Đế yêu quý nhất nhưng vẫn bị xử tử vì bị cho là phản nghịch), thân thiết thiếu soái Lâm Thù (tức Mai Trường Tô) của quân Xích Diệm. Khi toàn quân Xích Diệm bị tiêu diệt, Kỳ Vương phải uống thuốc độc tự tử, Tĩnh Vương còn đang chinh chiến ngoài biên ải, mặc dù có công nhưng không được trọng dụng. Hơn ai hết, chàng là người không thể chấp nhận rằng quân Xích Diệm, Kỳ Vương và người bạn Lâm Thù của chàng lại là những kẻ “loạn thần tặc tử”.

Tình bạn của Lâm Thù và Tĩnh Vương làm ta nhớ đến vở tuồng “Sơn hậu” với tình bạn của Khương Linh Tá và Đổng Kim Lân. Đó là những người bạn mà có thể sống chết vì nghĩa, vì tình. Từ ngày xảy ra sự việc quân Xích Diệm bị tận diệt, Tĩnh Vương không còn chút tham vọng hay nhiệt huyết nào. Chàng chỉ làm điều cần làm theo bổn phận và để bảo vệ người mẹ của chàng. Bao nhiêu năm, chàng cũng không động tâm với bất cứ một bóng hồng nào. Cũng từ đó, chàng chán ghét triều chính, chán ghét tranh quyền đoạt vị, khinh bỉ những kẻ mưu sâu kế hiểm có thể bất chấp thủ đoạn để đạt được quyền lực. Chàng chấp nhận để những kẻ đó đè đầu cưỡi cổ, nhưng trong lòng chàng có một sự khinh mạn với trò tranh giành của Thái tử và Dự vương, trò cân bằng quyền lực lố bịch của Lương Đế…v…v… Không phải Tĩnh Vương hèn hạ, mà bản thân chàng đã mất hết toàn bộ động lực.

Khi xây dựng nhân vật Tĩnh Vương, có lẽ tác giả và các nhà làm phim cũng phần nào ẩn dụ cho tình hình chính trị của Trung Quốc. Tĩnh Vương là một mẫu quân tử, chỉ làm điều đúng đắn, hoàn thành bổn phận, giữ khoảng cách với xung quanh và không đua tranh với đời. Một Tĩnh Vương như vậy, làm sao có thể dành được quyền lực? Điều này hoàn toàn trái với các hình mẫu vua như Hán Cao Tổ, Chu Nguyên Chương…v…v… vốn gian hùng, biết cách lèo lái thế cục. Còn Tĩnh Vương, bản thân chàng luôn cho rằng đó là một thế cục màn chàng không muốn trở thành quân cờ, cũng không muốn đụng vào nó.

Ấy vậy mà Mai Trường Tô, vị Kỳ Lân tài tử nổi tiếng với tin đồn “Ai có được Kỳ Lân tài tử sẽ có cả thiên hạ” không chọn Dự Vương hay Thái Tử mà lại chọn Tĩnh Vương. Tĩnh Vương không hề biết rằng Mai Trường Tô chính là Lâm Thù năm xưa, đương nhiên không khỏi kinh ngạc mà bật cười ha hả. Mai Trường Tô chọn Tĩnh Vương vì nhiều lẽ. Không phải chỉ vì tình nghĩa năm xưa, mà chính thái độ khinh mạn và khí chất quân tử của Tĩnh Vương là thứ mà chàng nhận ra rằng nó cần thiết để định thiên hạ. Thái tử và Dự vương đều dùng những trò âm độc để hại người, vậy thì muốn dẹp yên âm độc cần phải chí dương. Thái độ của Tĩnh Vương, hành động của Tĩnh Vương, con người của Tĩnh Vương chính là chí dương. Chỉ có Tĩnh Vương mới dám đi đến tận cùng của sự thay đổi để lật tẩy tất cả những sự thật bị quyền mưu che đậy. Chỉ có Tĩnh Vương mới dám bất chấp sự nguy hiểm của mình để đòi lại công bằng cho gia tộc họ Lâm và quân Xích Diễm. Trong tiền định, có lẽ, Mai Trường Tô và Tĩnh Vương – Lâm Thù và Cảnh Diễm, đã là một đội, vốn dĩ không thể tách rời.

Bi kịch lớn nhất của tình bạn này chính là Tĩnh Vương không biết Mai Trường Tô chính là Lâm Thù, người bạn thân thiết của mình. Sau khi quân Xích Diệm bị tiêu diệt, Lâm Thù trúng độc hỏa hàn, phải thay đổi dung mạo và giọng nói, hóa thân thành Mai Trường Tô. Mai Trường Tô trở về, với người thân thiết nhất là Tĩnh Vương, chàng lại giữ bí mật. Tĩnh Vương mặc dù chấp nhận thỏa thuận với Mai Trường Tô rằng sẽ tham gia vào tranh quyền đoạt vị những mong lật lại vụ án xưa, nhưng luôn tỏ thái độ khinh bỉ Mai Trường Tô bởi “bình sinh” chàng ghét nhất là kẻ dùng mưu kế (Có lẽ bị tổn thương vì những người thân yêu nhất của chàng đều chết vì âm mưu hiểm độc). Việc này đã đẩy Mai Trường Tô vào những cơn dày vò tâm lý, chấp nhận mọi sỉ nhục của Tĩnh Vương.

Với sự ngây thơ ấy, Tĩnh Vương giữ sự chính trực của mình, chiếm lấy niềm tin của những vị quan tài giỏi nhưng không có ưu thế trong triều. Thái tử và Dự Vương bị rơi vào thế cục bàn cờ do Mai Trường Tô sắp đặt, đấu đá tận diệt nhau đến chết. Tất cả các phe cánh của họ đều bị tỉa dần dần. Lương Đế dần mất lòng tin vào hai phe cánh này. Cùng lúc ấy, Tĩnh Phi (mẫu thân của Tĩnh Vương) bắt đầu được sủng ái dần trong cung do ông ta cũng chán ghét hoàng hậu và Việt quý phi vì con mình mà đấu đá, không chăm lo cho ông ta. Nhờ thế, Tĩnh Vương bướng bỉnh và không quan tâm đến chính sự lại trở thành một người thực sự cần thiết đối với kẻ đa nghi như Lương Đế. Rõ ràng, giữa một nền chính trị bẩn thỉu, chỉ những người chính trực và trong sáng mới có thể đại diện cho hi vọng. Do đó, sự lựa chọn của Mai Trường Tô quả nhiên không hề đơn giản. Phải là người có tâm thế bên ngoài thế cục mới dám đi nước cờ liều mạng như vậy.

Nhưng nhìn lại thì, Tĩnh Vương có thật sự ngây thơ hay không? Không! Chàng ta không hề ngây thơ. Mọi trò diễn trong triều đình, chàng ta thấu rõ không kém gì Mai Trường Tô. Vấn đề của Tĩnh Vương là quá bướng bỉnh, quá định kiến, quá thẳng thắn. Để giữ được sự chính trực ấy, chàng lao đầu vào những trận chiến ngoài biên ải để không phải về triều vào luồn ra cúi. Mai Trường Tô, từng bước từng bước gỡ bỏ những định kiến của Tĩnh Vương. Còn lại định kiến cuối cùng, đó là sự đề phòng của Tĩnh Vương với những kẻ mưu sâu kế hiểm mà Mai Trường Tô đang diễn vai, cũng bị chàng gỡ bỏ nốt. Để gỡ bỏ định kiến ấy, sự thật phải hiển lộ. Giây phút biết Lâm Thù là Mai Trường Tô, Tĩnh Vương có thể nói dối không chớp mắt trước Lương đế. Thậm chí, khi Lương đế ép Mai Trường Tô uống thuốc độc, Tĩnh Vương dám giật lấy chén thuốc. Hẳn rằng cả Lương đế và Mai Trường Tô cũng giống như chúng ta lo lắng rằng Tĩnh Vương sẽ uống chén thuốc độc ấy thay Mai Trường Tô. Nhưng không, đúng như đã nói ở trên, Tĩnh Vương là một mẫu hình tượng chính trị gia hoàn toàn khác, chàng hất chén rượu đi với một thái độ gườm gườm rồi đường đường chính chính cùng Mai Trường Tô bước ra khỏi hoàng cung. Hành động hắt chén rượu ấy là một câu trả lời ngầm ẩn với Lương đế rằng: “ Tất cả thế cuộc ta đã nắm trong tay, không phải ai thích làm gì thì làm!” Đó chính là biểu hiện trưởng thành của Tĩnh Vương.

Tĩnh Vương tìm lại được bạn cũ, nhưng chàng không có cơ hội để bù đắp lại 13 năm không gặp. Khi công thành danh toại thì Mai Trường Tô cũng đã qua đời. Tĩnh Vương chỉ còn lại cô độc. Nhìn những cảnh cuối bộ phim khi Tĩnh Vương lên ngôi hoàng đế, không có Mai Trường Tô bên cạnh mới thấm thía hai chữ “quả nhân”.

Chặng đường chính trị mai sau của Tĩnh Vương không được ghi vào trong truyện. Tĩnh Vương sẽ là một bậc minh quân hay lại đa nghi, vị kỷ giống như Lương đế, không ai có thể biết. Lương Đế cũng đã cảnh báo Mai Trường Tô rằng việc ngồi lên chiếc ghế hoàng đế sẽ làm Tĩnh Vương biến chất. Nhưng Mai Trường Tô không bận tâm, chàng chỉ thấy đáng thương cho Lương Đế mà thôi. Chàng vốn dĩ hiểu rằng không còn một phương án nào khác để tin tưởng, ngoài Tĩnh Vương. Tạo ra một hình mẫu chính trị gia như Tĩnh Vương, phải chăng những nhà làm phim cũng đang gửi gắm điều gì đó?

Còn tiếp…

Home 2017 Tháng 9 / page 3

Lang Gia Bảng – Quyền mưu và hai nửa chính tà (1): Mai Trường Tô

“Lang Gia Bảng”, không còn gì phải bàn cãi, chính là bộ phim truyền hình cổ trang đỉnh cao nhất của Trung Quốc trong 10 năm trở lại đây. Bộ phim có thể sánh ngang với những tác phẩm truyền hình kinh điển như “Thủy Hử” (1996), “Tiếu ngạo giang hồ” (2001), “Anh hùng xạ điêu” và “Thiên long bát bộ” (2003). “Lang Gia Bảng” tạo nên một không khí hoàn toàn khác hẳn với những bộ phim truyền hình trước đó: Một câu chuyện tranh quyền đoạt vị được diễn ra trên tông màu thủy mặc trong nền nhạc bi tráng – câu chuyện của chàng thư sinh ốm yếu Mai Trường Tô với tấc lòng ưu thời mẫn thế, của Tĩnh Vương khẳng khái muốn đòi lại chính nghĩa, của Lận thiếu các chủ, Mông đại thống lĩnh… một lòng vì bạn, của những cô gái đẹp một cách phi thường trong khí chất  như Nghê Hoàng quận chúa,  Cung Vũ, Hạ Đông…v…v… Đã lâu lắm rồi, trong những bộ phim đấu đá chính trị, cái đẹp và chính nghĩa mới có vị trí thắng thế như vậy.

Phân tích quyền lực thật sự của Mai Trường Tô

Mở đầu bộ phim là hình ảnh Mai Trường Tô thức dậy sau cơn ác mộng “gió tanh mưa máu” về ký ức năm xưa. Mai Trường Tô chính là tướng quân Lâm Thù của đội quân Xích Diệm năm nào, vì quá xuất sắc trên chiến trường, nên đã trở thành nạn nhân của những cuộc đấu đá quyền lực trong triều đình. Chỉ bằng một sắc lệnh, toàn bộ quân Xích Diệm đã bị giết chết. Cha của Lâm Thù là tướng quân Lâm Tiếp cũng tử trận. Cả nhà họ Lâm bị xếp vào tội phản tặc, bị xử tử. Ngay cả Kỳ Vương, một vị vương tử ôm ấp mộng mang lại sự thái bình thịnh trị cho dân cho nước, cũng vì liên đới đến Lâm gia mà bị ép vào tội âm mưu phản nghịch. Lâm Thù may mắn còn sống, nhưng bản thân bị trúng độc Hỏa Hàn, nên phải từ bỏ dung mạo của mình, từ bỏ võ công của mình, làm một cuộc lột xác, những mong quay trở lại, phơi bày sự thật. 13 năm, Lâm Thù sống với hình hài mới, danh tính mới, phận vị mới, và được đỡ đầu bởi Lang Gia Các – một thế lực giang hồ có khả năng thu thập mọi thông tin trong thiên hạ và đưa ra những bảng xếp hạng cao thủ trong từng lĩnh vực.

Ý tưởng về Lang Gia Các là một điểm rất khác biệt trong cách xây dựng cơ cấu quyền mưu của bộ phim này. Một trong những quyền lực lớn bao trùm toàn bộ bộ phim chính là Thông Tin. Sức mạnh của Lang Gia Các dựa trên việc thu thập thông tin từ rất nhiều nguồn, phân bố và chọn lựa việc cung cấp thông tin ra bên ngoài, và từ đó chiếm luôn quyền lực của thẩm định. Lang Gia Các có thể chỉ bằng một vài thông tin là có thể thao túng được quyền lực trong các triều đình và trong các tổ chức bang phái giang hồ. Cùng với Lang Gia Các cũng có một số tổ chức khác trong phim đi săn tin như Huyền Kính Ty và Hồng Tụ Chiêu. Huyền Kính Ty dựa vào hệ thống an ninh điều tra, trung thành với triều đình. Bởi vì hệ thống Huyền Kính Ti này chủ yếu dựa trên giám sát bá quan, cho nên thông tin có phần hạn hẹp hơn. Bản chất của hệ thống này tập trung vào việc kiểm soát hành vi và độ trung thành của bá quan, cho nên rất cần thiết với người cai trị, nhưng lại dễ dàng trở thành công cụ cho các thế lực tranh quyền đoạt vị. Hồng Tụ Chiêu là hệ thống tình báo dựa trên năng lực của những cô gái làng chơi và nữ tì. Mỗi cô gái trong Hồng Tụ Chiêu đều là gián điệp, nghe ngóng thông tin từ ông chủ và khách làng chơi, rồi báo tin lại cho người đứng đầu là Tần Ban Nhược.  Tần Ban Nhược cũng là kỹ nữ nổi tiếng kinh thành, trá hình để che đậy cho mưu đồ phục quốc của Hoạt tộc.  Tần Ban Nhược làm quân sư cho Dự Vương, một tay điều khiển và lợi dụng Dự Vương để đạt được quyền lực cho riêng mình. Ba mô  hình quyền lực thông tin ấy, mỗi bên tác động đến triều chính theo một cách khác nhau và có những mục tiêu khác nhau. Huyền Kính Ty và Hồng Tụ Chiêu đã gây ra vụ án oan Xích Diệm. Trong khi đó, Lang Gia Các vì ân tình với quân Xích  Diệm năm xưa mà đỡ đầu Mai Trường Tô (tức Lâm Thù) lập nên Giang Tả Minh và tìm cách đưa Mai Trường Tô quay lại triều đình.

Câu chuyện chính diễn ra khi Hoàng đế Đại Lương bắt đầu già yếu, Thái tử và Dự Vương (vị Hoàng tử được vua yêu chiều nhất) tranh nhau ngai vị. Thái tử xây dựng quyền lực dựa vào Ninh Quốc Hầu (quản lý quân đội), còn Dự Vương dựa vào Hồng Tụ Chiêu mà đứng sau là Huyền Kính Ty (một dạng giống như An ninh). Đây là một tình thế quen thuộc trong chính trị hiện nay mà bất cứ ai quan tâm đến chính trị có thể nhận ra.  Bất cứ vị quan nào đi theo hai thế lực này đều sẽ dễ dàng thăng tiến, còn nếu không, dù tài năng đến đâu cũng không thể được ân sủng của Hoàng đế. Đỡ đầu Thái tử là Việt quý phi (cung phi được sủng ái nhất), đỡ đầu Dự Vương là hoàng hậu (người đứng đầu cung cấm). Giữa bối cảnh ấy, Mai Trường Tô xuất hiện bằng một tin đồn do Lang Gia Các tung ra: “Ai có được Kỳ lân tài tử sẽ có cả thiên hạ”. Bốn chữ “Kỳ lân tài tử” ấy dùng để ám chỉ “mưu trí vô song” của Mai Trường Tô.

Trong lịch sử Trung Hoa, không ít mưu sĩ nổi tiếng sử dụng mưu trí của mình để phò trợ minh quân, bình định thiên hạ. Tôn Vũ, Trương Lương, Quách Gia, Gia Cát Lượng, Ngô Dụng… đều chỉ một thân áo vải có thể điều khiển ba quân tướng sĩ, dẹp loạn quần hùng. Nhân vật Mai Trường Tô cũng được xây dựng dựa trên hình mẫu này. Tuy nhiên, chúng ta không nên nhầm lẫn Mai Trường Tô với những mưu sĩ chỉ dùng ba tấc lưỡi thao túng thiên hạ như Ngũ Tử Tư, Tô Tần, Trương Nghi. Điểm nổi trội Mai Trường Tô, cũng như Tôn Vũ, Trương Lương, Quách Gia, Gia Cát Lượng, Ngô Dụng, đó là dù có thể dùng mưu kế âm hiểm, nhưng tâm vẫn giữ một lòng trinh bạch. Trong khi ấy, loại quân sư như Ngũ Tử Tư, Tô Tần, Trương Nghi chỉ vì lợi ích cá nhân mà thôi. Trong Lang Gia Bảng, những quân sư như thế có thể kể đến Tôn Hạ Giang của Huyền Kính Ty, Tần Ban Nhược của Hồng Tụ Chiêu, Tạ Ngọc của Ninh Quốc phủ…v…v… Mai Trường Tô phải đối phó với những kẻ âm hiểm như vậy.

Sức mạnh thật sự của Mai Trường Tô thật sự không đến từ mưu trí vô song. Nếu xét về mưu trí, Mai Trường Tô không hơn Tạ Ngọc hay Hạ Giang. Sức mạnh thật sự của chàng đến từ tấm lòng trinh bạch đại diện cho chính nghĩa của chàng. Nhờ tấm lòng ấy, Mai Trường Tô có những người bạn hết lòng vì chàng  như Mông đại thống lĩnh, Lận thiếu các chủ, Ngôn Dự Tân, Tiêu Cảnh Duệ…; có những người con gái sẵn sang liều mạng vì chàng như Nghê Hoàng quận chúa, Cung Vũ cô nương; có những người anh em chẳng ngại vào sinh ra tử để thực hiện mưu đồ cùng chàng. Trong khi ấy, Tạ Ngọc nhờ mưu kế mà chiếm đoạt công chúa làm phu nhân, nhưng phu nhân của ông ta không hề nghĩ tới ông dù chỉ mảy may bận tâm, thậm chí còn có chút oán hận. Tôn Hạ Giang nuôi ba đứa trẻ mồ côi là Hạ Xuân, Hạ Thu, Hạ Đông, thì chính Hạ Đông khi biết được mưu kế thâm hiểm của Hạ Giang đã đứng về phe Mai Trường Tô. Hai người đàn ông mưu trí tột đỉnh ấy, tưởng rằng có thể dùng  mưu trí để thâu tóm thiên hạ, bất chấp thủ đoạn gây hại đến chính những người thân tín nhất bên cạnh mình. Trong khi ấy, Mai Trường Tô luôn có được nhân tâm vì tấm chân tình của chàng với những người ở bên chàng. Bằng mọi mưu kế, điều tâm niệm của chàng đều là bảo vệ người mình thân yêu nhất, không chỉ là tính mạng mà còn nhân phẩm. Còn nhớ cảnh Mai Trường Tô nói chuyện với Mông đại thống lĩnh:

Mông Chí: “Tĩnh vương bẩm sinh không giỏi mưu mô, lại chán ghét tranh đấu đoạt quyền vị, Đoạt ngôi là việc vô cùng nguy hiểm. Với tính cách như vậy của ngài ấy, sao ngài ấy có thể đọ lại được với Dự vương và Thái tử thủ đoạn nham hiểm, thế lực hùng hậu chứ?”

Mai Trường Tô: “Chẳng phải vẫn còn ta sao, những tội nghiệt và đau khổ này, Tĩnh vương không chịu đựng nổi thì cứ để ta gánh vác. Những việc đen tối, nhuốm đầy máu tươi, thì cứ để ta làm.”

Nhận về mình mọi cái ác, để những người quanh mình giữ được bản tính thiện lương… Chấp nhận mình như một kẻ mưu đồ thâm hiểm, để vị minh quân của mình trong tương lai nguyên vẹn là viên ngọc trai không tì vết. Đó là điều tâm niệm mà cũng là sự dằn lòng trong đau đớn của chàng. Cứ mỗi một mưu kế được bày ra thì độc tố trong người chàng đều phát tác đến mức không thể chịu đựng được. Những giây phút ấy, không ai có thể chịu thay chàng, chỉ có thể ở bên ngoài săn sóc và chờ đợi.

Hơn nữa, so với Tạ Ngọc, Hạ Giang và Tần Ban Nhược, Mai Trường Tô có 13 năm lên kế hoạch kỹ lưỡng cho kế hoạch trở về. 13 năm ấy, Mai Trường Tô giống như nằm trong kén bướm đợi ngày xuất hiện. Sau 13 năm, tất cả những kẻ đã từng đẩy quân Xích Diệm và gia tộc của chàng vào biển máu đều chỉ là những quân bài bị tiêu diệt dần dần. Trước mọi sự cố, chàng đều có một sự định tâm hơn người thường. Sự định tâm ấy thể hiện ở thái độ an nhàn trước mọi sự. Xung quanh khua đao múa kiếm, chàng vẫn ngồi ăn quýt. Kẻ khác mời chào, chàng vẫn bình tâm uống trà. Kẻ địch ám sát, chàng vẫn thản nhiên đọc sách. Sự định tâm ấy không đơn giản có từ việc chuẩn bị kỹ lưỡng kế hoạch, mà có từ khả năng thấu rõ thế sự và niềm tin chắc chắn vào khả năng giải quyết tình huống của bản thân. Có lẽ, đây sẽ là vấn đề trừu tượng, chúng ta có thể có một cách diễn đạt khác. Trong truyện mô tả Mai Trường Tô không biết chơi cờ, nhưng mưu trí của chàng không ai có thể hơn được, tại sao? Kẻ chơi cờ thắng được nhờ biết luật và tuân thủ luật. Nhưng, trên thực tế, người chơi cờ bị chính luật trên bàn cờ điều khiển. Người chơi cờ, ở góc nhìn toàn thể, cũng chỉ là một quân cờ mà thôi. Còn Mai Trường Tô ở bên ngoài toàn bộ thế cục đó, cũng không cần biết đến luật của bàn cờ. Chính chàng đã biến hai thế lực của Thái Tử và Dự Vương thành những kẻ chơi cờ mà không biết rằng họ cũng chỉ là quân cờ. Từ tâm thế của người đứng ngoài cuộc, chàng nhìn rõ thế cục. Rõ thế cục đã khiến chàng định tâm hơn những kẻ đang lao vào cuộc chơi cờ kia. Trong lúc hai kẻ chơi cờ lao vào cuộc chiến, Mai Trường Tô mới dốc sức đào tạo Tĩnh Vương, tìm người tài về dưới trướng Tĩnh Vương mà không hề lộ ra biểu hiện phe cánh. Một sự phân định rõ ràng đã được sắp xếp: Kẻ tham lam chạy theo tranh quyền đoạt vị, người có tâm sẽ một lòng dốc sức vì dân vì nước. Và những người một lòng dốc sức vì dân vì nước, không cần ràng buộc quyền lợi, cũng sẽ luôn hỗ trợ nhau. 13 năm nằm trong kén, Mai Trường Tô đã ngẫm ra chân tướng của cuộc đấu đá, nhờ thế mà có thể đứng ở bên ngoài cuộc đấu đá mà vẫn thao túng được thiên hạ.

Đối nghịch lại với Mai Trường Tô là Hoàng đế Đại Lương (Lương Đế). Lương Đế bị ám ảnh về cân bằng quyền lực, bởi vậy mới cố tình tạo ra thế cục hai bên đấu đá nhau ở trong triều. Nhưng càng đẩy các bên vào đấu đá để giữ vững quyền lực cho bản thân mình, ông ta càng mất đi những người thật sự thân tín. Những người thật sự một lòng với ông như Kỳ vương hay tướng quân Lâm Tiếp của quân Xích Diệm đều trở thành nạn nhân của những mưu hèn kế bẩn.  Còn bản thân ông ta lại không thể phân biệt được thị phi. Lương Đế kích thích đấu đá và cũng vì thế mà triều đình của ông ta suy yếu, gian thần lộng hành tham nhũng khắp nơi. Mai Trường Tô xuất hiện, lợi dụng thế cục đấu đá ấy, mượn tay các bên để diệt trừ gian thần. Sức mạnh giúp Mai Trường Tô thanh trừng đối thủ đó chính là sự thật. Trong khi ấy, hai thế lực kia lại xây dựng quyền lực dựa trên dối trá và dùng sự dối trá để triệt tiêu nhau. Sự thật giống như quả bộc phá có thể đập tan mọi bức tường thành kiên cố nhất mà dối trá chất chồng dối trá đã tạo nên, quyền lực ấy, chỉ Mai Trường Tô là người thực sự hiểu.

Mai Trường Tô dàn xếp thế lực, không chỉ bằng quyền lực và mưu trí, mà còn bằng tình nghĩa. Mai Trường Tô chọn minh quân dựa trên rất nhiều tiêu chuẩn. Thứ nhất phải không tham, thứ hai phải nhiều công trạng, thứ ba phải có động lực trong việc đòi công bằng và lật lại vụ án oan, thứ thư, quan trọng nhất, phải là người mà Mai Trường Tô thực sự tin tưởng. Bởi vì, chàng biết hơn ai hết, chàng sẽ qua đời sớm, chàng không thể ở bên để xây dựng triều chính, thế nên, người lên ngôi phải là người thân tín, người chàng có thể chắc chắn sẽ không phản bội lý tưởng chính nghĩa của chàng. Bằng tấm lòng đó, chàng đã thuyết phục được Tĩnh Vương cố chấp vốn chán ghét mưu kế. Cũng bằng tấm lòng đó, Tĩnh Vương không sợ mất quyền lực đã gây dựng được mà liều chết cứu chàng. Dự Vương không thể làm thế vì Hạ Giang, Thái tử cũng không thể làm vậy vì Tạ Ngọc.

Như vậy, quyền lực thật sự của Mai Trường Tô dựa trên ba yếu tố: Sự hiểu biết, tình nghĩa và tấm lòng trung chính. Các bậc quân sư xưa đều cho rằng có hai dạng mưu kế. Một là âm mưu thủ đoạn dùng để triệt hạ địch thủ. Hai là dương mưu, vốn là những kế hoạch kiến thiết, xây dựng. Kẻ mưu sĩ thâm sâu là người vừa dùng cả âm mưu, dương mưu và không tham quyền lực. Kẻ mưu sĩ thấp hèn là loại người chỉ biết tranh quyền đoạt vị, ám toán hại người. Âm mưu có thể tranh đấu với âm mưu nhưng không thể thắng. Chỉ có ai ở trên tất cả những thứ âm độc ấy mới có thể dẹp yên loạn lạc, khiến cho thiên hạ thái bình. Với cách sử dụng quyền mưu của Mai Trường Tô, ta có thể thấy bộ phim vượt trên các phim đấu đá chính trị cùng thời điểm, thậm chí ngay cả khi so sánh với bộ phim bom tấn của Holywood là “Game of Thrones”.

(Còn tiếp)

Hà Thủy Nguyên

Trailer phim: 

Home 2017 Tháng 9 / page 3

Thị trường sách Việt Nam (5): Trớ trêu sách dịch

Những người yêu sách và có tri thức ở Việt Nam không ít lần phải bực bội khó chịu với những bản dịch được xuất bản có nhiều sai sót. Người ta thường đổ toàn bộ trách nhiệm cho dịch giả, thế nhưng để có một bản dịch tệ hại thì cần có sự tồn tại của một hệ thống biên tập thiếu chuyên môn và một hệ thống giảng dạy tiếng Anh thiếu trách nhiệm.

Một bản dịch tệ thường có rất nhiều kiểu sai phạm. Kiểu dễ nhận biết nhất là dịch sai khái niệm và thuật ngữ. Kiểu khó nhận biết hơn là sai ngữ pháp trong khi diễn đạt tiếng Việt. Và khó nhận biết hơn nữa là dịch sai ý của câu do ngoại ngữ không vững. Ba kiểu dịch tệ này, các dịch giả đều có thể mắc phải trong quá trình dịch, không chỉ với những nhà sách nhỏ mà còn với cả những nhà xuất bản, nhà sách có uy tín như Nhà xuất bản Tri Thức (ví dụ như cuốn “Căn tính và bạo lực”), Nhà xuất bản Trẻ (ví dụ như cuốn “Bức chân dung Dorian Gray”), Nhà sách Alpha Book (đã đề cập ở trên_, Nhà sách Nhã Nam (ví dụ như cuốn “Lolita”)…v…v… Thường thì khi bị độc giả kêu ca về bản dịch, họ (từ dịch giả đến biên tập của nhà sách) thường bỏ lơ hoặc cố chấp không nhận sai cũng như không đưa ra được bằng chứng chứng minh việc mình dịch đúng. Thế là cộng đồng lại huyên náo lời ra tiếng vào.

Như đã nói ở trên, đằng sau một bản dịch tệ còn có hai hệ thống đang vận hành để tạo ra cái tệ đó. Tôi xin được lần lượt đề cập đến những nguyên nhân sâu xa ấy thay vì trách móc dịch giả.

Không có đội ngũ biên tập có trình độ, mà cụ thể là trình độ ngoại ngữ tốt là nguyên nhân dễ thấy cho tình trạng dịch thuật tệ hại. Một bản dịch sau khi được hoàn thành sẽ được đưa thẳng đến biên tập viên tiếng Việt. Đội ngũ biên tập này (may ra thì biết ngoại ngữ ở mức độ sơ cấp) sẽ đọc qua phần tiếng Việt và không đối chiếu với bản tiếng nước ngoài. Sẽ dễ dàng hơn với các bản dịch từ tiếng Anh bởi tiếng Anh giờ đây đã khá phổ biến. Thế nhưng, nếu biên tập không có đủ kiến thức chuyên ngành hay không quen với các văn phong hàn lâm thì biên tập ấy cũng không đủ trình độ để sửa chữa giúp dịch giả hay thẩm định về chất lượng nội dung. Tóm lại, biên tập mà trình độ thua quá xa so với dịch giả hoặc không đủ kiến thức để duyệt sách, thì biên tập ấy cùng lắm chỉ có thể sửa lỗi chính tả.

Một thế hệ người dịch kém chất lượng đã được hình thành do thói quen “ăn xổi” từ trên ghế nhà trường. Học ngoại ngữ vốn dĩ không phải là việc quá khó thế nhưng chương trình học kiểu “monkey see monkey do” do các trường học và các trung tâm ngoại ngữ lan truyền đã khiến cho các học viên không nắm được các nguyên tắc của ngôn ngữ ấy như tính đa nghĩa của từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, các lối thành ngữ hoặc chơi chữ…v…v… Các học viên này học theo lối “cày cuốc” lấy điểm thi, mà chủ yếu là thi trắc nghiệm. Thế nên, một sinh viên đạt điểm xuất sắc trong các kỳ thi ngoại ngữ cũng chưa chắc có khả năng dịch một bài luận hay một cuốn sách cho đến nơi đến chốn.

Thêm nữa, với sự xuất hiện của Google Translate, người ta có thể copy nguyên phần văn bản vào để dịch rồi sửa lại sao cho mượt mà, dễ đọc. Google Translate rất hiệu quả nếu chúng ta dịch tin nhanh, nhưng dịch những văn bản mang tính chất hàn lâm hay văn chương thì hệ thống này sẽ cho chúng ta thấy một thảm họa dịch thuật. Tôi đã từng tuyển một nhóm bạn trẻ học ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội và trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (đều là những sinh viên xuất sắc có điểm số cao, trong đó có người đang học cao học) để tham gia dịch một cuốn sách nghiên cứu về hệ thống bầu cử. Khi đọc bản dịch của họ, phải thừa nhận, rất êm tai dù không hiểu gì. Đến lúc đối chiếu với bản gốc thì thấy rằng những bản dịch này sai hoàn toàn so với nguyên tác. Tôi đã chất vấn họ về bản dịch, họ thừa nhận sử dụng Google Translate và cho biết rằng ở trường mọi người, kể cả thày cô của họ vẫn làm như thế. Sau đó, tôi đã phải cho dịch lại từ đầu, chấp nhận kéo dài deadline đến tận bây giờ. Điều này khiến tôi tự hỏi, không biết bao nhiêu bản dịch, từ báo chí cho đến sách vở được dịch theo cách này? Những ông chủ, bà chủ, những biên tập viên, những độc giả dễ dãi liệu có tưởng tượng được rằng chúng ta có thể bỏ một số tiền “không hề rẻ” để mua một bản dịch sửa chữa lại phần dịch máy của Google Translate?

Cục xuất bản thu hồi không ít cuốn sách vi phạm về chính trị hay về thuần phong mỹ tục, nhưng Cục xuất bản chưa bao giờ có mức xử phạt hợp lý với những vi phạm hiển nhiên về mặt đạo đức nghề nghiệp như vi phạm bản quyền hay dịch thuật kém chất lượng. Và thế là, bản dịch sai cứ được in, được bán, được PR rầm rộ mà không có bất cứ cơ chế nào đảm bảo quyền lợi cho người mua sách. Người mua sách chỉ có thể ngậm đắng nuốt cay, cùng lắm là tẩy chay nhà sách.

Nhưng hậu quả khó lường lắm. Nếu tình trạng này cứ tiếp tục diễn tiến và lan rộng, chúng ta sẽ có một thế hệ trẻ học kiến thức sai, sử dụng tiếng Việt sai và có thái độ làm việc sai. Việc cho ra đời một cuốn sách dịch kém chất lượng chẳng khác nào bán ra thị trường thứ thực phẩm đầy hóa chất độc hại được đắp lên màu mè bắt mắt mà người ta đang bài trừ. Chính phủ đã phát động chiến dịch vệ sinh an toàn thực phẩm, không biết khi nào mới phát động chiến dịch “vệ sinh nội dung sách” nhỉ!

Hà Thủy Nguyên 

Home 2017 Tháng 9 / page 3

Anh hùng luận (3): KHÚC TRÁNG CA CỦA TIỀU THIÊN VƯƠNG

Tiếng hô rợp trời, gió thốc ào ào, lá đại kỳ đập vào hư không phần phật! Ai nghe thấy trong gió lộng khúc tráng ca? Ai nghe thấy tiếng vần vũ chuyển dời rì rầm nơi chân trời xa? Ai nghe thấy tiếng vi lau phất phơ múa gậy giữa sương mờ?

Các anh em bằng hữu, ai cũng đã về trại của mình. Chỉ còn Tiều Thiên Vương đứng dưới lá cờ “Thế thiên hành đạo” trầm ngâm nghe khúc bi tráng đang vang vọng bốn bề. Khúc bi tráng này mấy ai trong số bằng hữu kia có thể thấu rõ cùng chàng. Tiều Thiên Vương ngửa cổ cười ha hả, vung chân đá bầu rượu lăn lóc bên dưới lá cờ. Bầu rượu đập vào chiếc ghế đá vỡ tan. Rượu còn đọng trong vò văng ướt sân đá, hương thơm ngào ngạt.

Khúc tráng ca đưa Tiều Thiên Vương vào cơn viễn mộng. Chàng thấy mình cưỡi trên lưng bạch mã, tấm hoàng bào nhuốm ánh dương quang, cát vàng lóng lánh mờ nhân ảnh.  Đoàn quân giáo mác chĩa thẳng thiên thanh bị bỏ lại sau đám bụi vàng chàng để lại. Thân làm chủ tướng nhưng chàng chỉ muốn một mình một ngựa xông giữa sa trường, Những bằng hữu kia, chàng cảm cái ơn tri ngộ của họ, nhưng chàng vẫn muốn được một mình… Gánh nặng của lời thề nơi Tụ Nghĩa đường, vũng Lương Sơn đã kéo chàng lại, khiến chàng không thể một mình “tung vó ngạo” chốn giang hồ.

Giữa khúc tráng ca ấy, một vị tiên nhân cưỡi mây đáp xuống. Tiều Thiên Vương không thèm quan tâm, chàng vẫn say sưa trong khúc tráng ca chỉ riêng mình chàng nghe thấu.

  • Ta tới đây để nhắc ngươi! Ngươi nhận sứ mệnh quần tụ anh hùng, thay triều đổi đại… đừng để ngạo khí của cá nhân làm hỏng cơ đồ!

Tiều Thiên Vương nghếch mắt nhìn vị tiên nhân:

  • Cơ đồ là của ai?
  • Của trăm dân trong thiên hạ ! Ngươi không vì mình thì hãy vì ngàn vạn kiếp sinh linh bị dày vò trong chiến loạn?

Tiều Thiên Vương khẽ nhếch mép. Cái nhếch mép của chàng đẹp tựa hồ bông cúc nở muộn trong bức thủy mặc:

  • Rồi sao? Ta, hoặc ai đó khác sẽ lên ngôi báu! Nếu may mắn, một thời đại thịnh trị sẽ đến… Rồi lại suy tàn! Rồi các người lại cần những kẻ như ta và bạn bè ta thay triều đổi đại, xây dựng một thời thịnh trị mới. Các ngươi chưa chán sao? Ta đã chán, đã chán lắm rồi!

Tiên nhân vuốt chòm râu dài, tỏ vẻ ung dung:

  • Điều này đã được ghi trong số trời! Đó là vận mệnh của người!
  • Vận mệnh… vận mệnh… – Tiều Thiên Vương cười lớn – Ha ha ha ha ha ha ha… Ta hi sinh chính ta cho một giấc mơ thịnh trị của kẻ nào đó mà ta không biết. Trăm dân là vậy, giống như bầy gia súc, cho ăn thì no, thiếu ăn thì đói. Ta và bạn bè của ta chỉ đơn giản muốn vẫy vùng một cõi, được thỏa chí tang bồng của loài chim hồng chim hộc, Còn các ngươi lại muốn trói chí tang bồng của chúng ta trong mấy chữ “thế thiên hành đạo”. Như vậy gọi là “vận mệnh” hay sao?

Tiên nhân hít một hơi thở:

  • Cái chí tang bồng ngươi nói chỉ là cái chí chật hẹp. Chí lớn thực sự là tấm lòng hi sinh vì nghĩa lớn, vì chúng sinh trong thiên hạ…

Tiều Thiên Vương nhắm mắt lại, khúc tráng ca vẫn ngân vang trong chàng. Chàng vang lên tiếng hát hào hùng:

“Này phượng hoàng, hỡi phượng hoàng

Vút hư không vượt muôn trượng mây

Bỏ lại cơ đồ giang san

Ai nuối tiếc?

Muốn đoạt vầng trăng sáng

Ai tiếc bức họa đồ?

Loài se sẻ núp dưới vườn hoang sao hiểu thấu?”

Tiên nhân bật cười chế nhạo:

  • Phượng hoàng muốn đoạt vầng trăng ư? Nó sẽ chết vì muốn vượt ra khỏi lẽ thường.

Tiều Thiên Vương lại nhếch mép, lần này nụ cười của chàng như vầng trăng lưỡi liềm cười nhân gian:

  • Chết rồi thì ai cũng chết… Lẽ thường do ai bày ra? Ngươi sống mãi trong vòng vây của lẽ thường, gia cố cho cãi lẽ thường thêm vững chắc, ngươi là kẻ có chí lớn? Còn ta, muốn phá bỏ mọi lẽ thường, vượt ra ngoài lẽ thường, ngươi lại gọi là cái chí hạn hẹp sao? Kẻ chưa từng ngước mắt nhìn lên, chưa đi đến giới hạn cuối cùng của mọi lẽ thì không hiểu được có gì bên kia “lẽ thường” ấy.

Tiên nhân cảm thấy rùng mình. Bốn phương may chuyển ầm ầm. Lau lách rạp mình theo hướng gió. Tiều Thiên Vương đứng đó, vẫn nụ cười nhếch mép, có phần chán nản, có phần bi thương, có phần cao ngạo. Tiên nhân lùi lại mấy bước, lẩm bẩm mấy câu:

  • Ngươi… ngươi định làm gì… Vận mệnh không phải trò đùa…

Tiều Thiên Vương ngẩng đầu nhìn giữa mây khói. Xa xa, tiếng hát chèo đò của ba anh em họ Nguyễn vang vọng hào sảng, lan tỏa hơi rượu nồng khắp bốn phương. Xa xa, bóng Ngô Học Cứu in trên vách tường đang trầm ngâm đọc sách. Xa xa, bóng bát xà mâu của Lâm giáo đầu bay bay tựa cánh hoa mai rơi theo tuyết rụng. Cảnh tượng ấy, khí thế ấy, ngàn vạn năm nữa còn lưu mãi trong tâm khảm của chàng.

Chàng sẽ ra đi trước! Chàng sẽ rời bỏ bữa tiệc còn dang dở. Cuộc vui nào rồi cũng có lúc tàn. Ngày mai kia, chàng sẽ tung vó ngựa giữa sa trường, bỏ lại đoàn quân trung thành, để một mình lao vào trại địch. Mũi tên địch không giết được chàng. Nhưng độc tố và sự thâm hiểm của địch sẽ giết chết chàng. Như vậy, chàng có thể chấm dứt cái vận mệnh mà kẻ nào đó đã áp đặt lên chàng. Những bằng hữu vào sinh ra tử kia, liệu có hiểu cơn cuồng dại này của chàng chăng?

Sau cái chết, chàng sẽ trở thành khúc tráng ca. Bằng hữu của chàng liệu có nghe thấu không? Họ liệu nghe lời kêu gọi của chàng? Có nghe tiếng đàn trời dội vào tâm can đánh thức họ khỏi giấc mộng cơ đồ? Mà không nghe thì có sao? Tự chàng tự mãn giữa thinh không…

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng 9 / page 3

Sâu thẳm

Sâu thẳm

Đắm chìm… Làn nước một màu xanh lơ… Tia sáng đâu đó le lói chiếu rọi mơ hồ, không thể nắm bắt… Tôi lơ lửng trong một vùng nước mênh mông không xác định! Không thể biết được đâu là đáy! Cũng chẳng có nhu cầu muốn vùng vẫy thoát khỏi sâu thăm thẳm. Tôi chỉ biết rằng mình cứ thế trôi đi… trôi đi… trôi vào một cõi hư vô… Trước mắt tôi ánh sáng bên trên le lói. Nhưng màu xanh lơ ấy quá quyến rũ…

Bất chợt tôi thấy mình đang ngồi ở trên giường và viết những điều vô nghĩa lý! Toàn thân tôi rực cháy, mỗi tế bào rung lên như muốn nổ tung! Sự im lặng đáng sợ của đêm đều ẩn giấu trong nó từng khối thuốc nổ! Chỉ cần một mồi lửa, toàn bộ những gì tĩnh lặng này sẽ bị phá tan. Người ta bảo rằng vũ trụ được sinh ra từ một vụ nổ lớn, chả biết thật hư thế nào! Có thể đó chỉ là điều vũ trụ muốn con người tin! Có thể rằng vũ trụ muốn con người phát nổ! Vũ trụ không thể tự châm ngòi nổ và con người được sinh ra để châm ngòi nổ ấy, để toàn bộ bị tiêu diệt đến tận cùng, để một vũ trụ mới tinh khôi hơn được sinh ra. Sự hèn nhát khiến chẳng ai trong chúng ta dám châm ngòi nổ, thà rằng chết chìm trong đống cứt đái còn hơn là bắt đầu một cái gì đó mới mẻ.

Một cơn gió mát thổi qua mơn man trên mái tóc của tôi. Cơn gió vuốt nhẹ lọn tóc mai đã bị tôi vuốt ngược lên vì nó che mất màn hình máy tính. Lọn tóc rủ xuống! Tôi giật mình! Không phải cơn gió! Ngón tay của ai đó đã chạm lên tóc tôi một cách rõ ràng! Có lẽ nào đó là một bóng ma! Trong đêm những bóng ma điên rồ, cũng có thể là những con quỷ khiêu gợi các ảo giác đầy ham muốn dục tính sẽ trêu đùa những kẻ như tôi. Kệ thôi! Ai đó có thể sợ những trêu đùa này, có thể bị mê hoặc, nhưng với tôi không có vấn đề gì! Đã lâu lắm rồi mấy trò đạo đức, liêm sỉ, mặc cảm tội lỗi gì gì đó tôi đã vứt toẹt vào cái đống cứt đái của vũ trụ và chỉ đợi một mồi lửa cho nó cháy ra tro.

Năm ngón tay vô hình đó luồn sâu vào mái tóc, có nhiều lúc như cuốn chặt lấy rồi lại buông ra… Nó nghịch ngợm di chuyển trên khuôn mặt, rồi xuống đến môi. Điều mà tôi thấy kỳ lạ là những ngón tay này có gì đó rất quen thuộc, có thể của ai đó tôi đã từng quen. Tôi cố nhớ xem trong số tất cả những anh chàng đã đi qua đời tôi, những ngón tay đó thuộc về ai! Tất cả đều không giống! Dù sao đi nữa, ngón tay này cũng mang đến cho tôi một cảm giác khó tả! Không ổn rồi! Tôi đã mất mọi quyền kiểm soát! Hai bàn tay tôi bị mười đầu ngón tay giữ chặt trên giường. Làn môi ai đó đang chạm lên cổ, hơi thở ai đó đang khẽ phả vào tai! Tại sao phải giữ chặt thế chứ, tôi đâu có nhu cầu cưỡng lại. Một lần nữa tôi đang trôi vào một cõi hư vô… và tôi lại thấy cái bóng xanh lơ quyến rũ…

Lờ mờ hé mở đôi mắt… chết tiệt… cái màu xanh lơ ấy là cái màn hình Windows sáng giữa đêm! Tất cả vừa rồi là một giấc mơ! Một kẻ đạo đức giả nào đó sẽ gọi đây là giấc mơ của đứa bệnh hoạn và hư hỏng! Không phủ nhận rằng, trong cái ý nghĩ độc ác của mình, tôi đã từng thầm ước ao cái đám đạo đức giả ấy sẽ bị nổ tung giữa mớ cứt đái kia. Tôi vùng dậy mở tung cửa sổ! Trời không có một cơn gió nào! Chỉ có màn đêm nhạt nhẽo! Trời đã gần về sáng! Sáng ngày mai tôi có một cuộc hẹn quan trọng. Chả biết tôi sẽ xoay sở thế nào với cái cơn rạo rực mà bàn tay vô hình đã tạo ra! Có lẽ tôi nên hủy hẹn ở nhà cho rồi!

Nghĩ miên man thế mà sáng lúc nào không biết! Với tôi buổi sáng không có gì đặc biệt! Buổi sáng là buổi tôi phải khoác lên mình những bộ quần áo! Mặc quần áo có lẽ là phát minh khó hiểu nhất của loài người. Mất công phát minh ra quần áo, váy vủng, đồ trang sức… chẳng qua cũng để đến khi lên giường cởi ra cho nó tăng phần gợi cảm! Người ta không sẵn sàng đối mặt với bản chất, công việc bóc gỡ các lớp vỏ rồi dần dần đi tìm sự thật nó thú vị hơn! Lan man quá! Trễ hẹn rồi!

Cuộc hẹn hôm nay quan trọng bởi vì đây là lần đầu tiên tôi tham gia vào một thí nghiệm khoa học! Thường thì tôi chả bao giờ làm thế! Đám khoa học gia là lũ ngớ ngẩn, cố gắng để đi tìm một mô hình nào đó và cố áp cái mô hình ấy vào vũ trụ! Nếu có thể châm ngòi cho đống thuốc nổ, tôi sẽ cho chúng nếm trải đầu tiên. Nhưng công trình khoa học ấy gây cho tôi hứng thú. Tên khoa học gia đề xướng ra dự án này đích thực là một kẻ điên rồ, trước tiên tôi phải khám phá hắn đã rồi xếp hắn vào hạng cần nổ tung sau. Chuyện là thế này, một ngày đẹp trời tôi lang thang trên mạng… thế rồi tình cờ đọc được rằng có một kẻ có khả năng ghi chép lại các ảo tưởng trong đầu của mỗi người bằng các hình chiếu. Lý thuyết của hắn dài dòng lắm, nào là các chiều không gian loằng ngoằng, mọi vận hành của tâm trí được lưu lại ở một chiều khác và cỗ máy của hắn có thể kết nối đến chiều ấy bằng một loại sóng khỉ gió nào đó! Tôi không có đủ não để chứa những điều ấy, tôi chỉ biết rằng đó là một trải nghiệm tôi cần biết và hắn là một kẻ tôi cần khám phá.

Hắn không giống như tôi tưởng tượng về một kẻ mọt sách núp trong bộ áo thụng của phòng thí nghiệm. Hắn có đôi mắt của một kẻ bị nhốt lâu ngày trong tu viện nhưng vẫn chất chứa đầy đam mê! Hơn thế nữa, tôi nhìn thấy trong đó cái tham vọng muốn cho nổ tung cả vũ trụ thành xác pháo! Điều này giống tôi y hệt! Nhìn thấy tôi, hắn chỉ cười khẩy một cái:

– Cô đến muộn đấy!

Tôi nhún vai không trả lời! Hắn nói tiếp:

– Không có nhiều người dám để tôi chép lại các ảo tưởng!

Giờ thì đến lượt tôi cười khẩy:

– Nếu anh có đủ dũng cảm để chứng kiến các ảo tưởng của tôi…

Hắn còn chẳng thèm quan tâm đến câu trả lời của tôi! Hừ! Hắn lại cắm mặt vào cỗ máy đồ sộ của mình!

– Cô cởi hết quần áo ra đi! – Hắn nói một cách vô cảm.

Tôi ngạc nhiên nhìn hắn.

– Tôi cần phải gắn các con chíp này vào người cô! Bộ não không nói lên điều gì cả! Bí ẩn có thể nằm ở chỗ khác!

Ừ thì cởi áo! Tưởng gì chứ… tôi cũng có thích mặc quần áo đâu… Nghĩ đến mười mấy tiếng đồng hồ nằm một chỗ trong bộ quần áo gò bó này cũng thật là tra tấn! Tôi leo lên bàn thí nghiệm và để hắn gắn con chíp lên người tôi. Những con chíp này không có dây nối, chúng được bắn một dọc từ giữa trán tôi, kéo xuống giữa ngực, bụng và ở phần dưới bụng. Một số con chíp khác lại được bắn dọc hai sải tay!

– Những con chíp này đều được gắn vào một số điểm đặc biệt mà tôi biết chắc sẽ kết nối đến phần không gian tâm trí của cô! Mọi hình ảnh trong ảo giác của cô sẽ bị ghi lại trên màn hình! Cô có thể xem sau đó! Bây giờ thì cô nhắm mắt lại đi!

Tôi nhắm mắt lại! Lại cái cảm giác rạo rực chết tiệt của đêm qua! Tôi cầu mong có một vụ nổ lớn, thiêu rụi toàn bộ thế giới này trong biển lửa! Những kẻ hèn nhát kêu gào cầu xin Thượng Đế rủ lòng thương! Nực cười! Bao giờ họ chấp nhận được rằng toàn bộ những đau đớn đó là điều họ phải trải qua! Nhìn lên bầu trời, một mặt trăng xuất hiện! Sau đó là một mặt trăng khác, một mặt trăng khác nữa… Phải đến 9 mặt trăng rồi… Không phải mặt trăng! Đó là toàn bộ các hành tinh trong hệ mặt trời nhìn lên từ Trái Đất, Thủy Tinh, Hỏa Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh… đủ cả…! Một vụ va chạm lớn đang xảy ra đây! Những hành tinh ấy có vẻ cũng đang bị hút xuống biển sâu. Tôi thích chí cười nắc nẻ như điên! Nổ lớn diễn ra trong siêu âm thanh! Không thể nghe thấy điều gì! Chỉ có một quầng sáng chói lòa trắng xóa!

Tôi lại đu đưa trong vô định, trôi nổi giữa một màu xanh lơ! Nhưng lần này tôi không có một mình! Tôi thấy hắn ghì chặt tôi trong vòng tay và đu đưa cùng tôi trong sóng nước! Hắn đi sâu vào bên trong tôi cùng nước biển và hôn tôi không rời. Một nụ hơn không mãnh liệt cũng chẳng hờ hững, đủ để cho nước biển mặn chát không vào cổ họng của cả hai! Hắn bắt đầu đưa tay lên vuốt lọn tóc mai lòa xòa trong nước của tôi! Tôi giật mình nhận ra! Chính là hắn! Cơn gió vô hình đêm qua quấy đảo giấc ngủ của tôi! Hắn sẽ nghĩ gì khi thấy toàn bộ những ảo giác này? Qúa sợ hãi, tôi mở choàng mắt!

Hắn đang leo lên người tôi, cũng trần truồng như loài người thuở hồng hoang. Hai tay hắn ghì chặt tay tôi giống đã làm đêm qua! Tôi nhún vai:

– Ra đây là thí nghiệm khoa học cơ đấy?

Hắn ngoảnh đầu nhìn lên màn hình:

– Cô thấy đấy! Tôi không nói dối! – Tôi nhìn theo hắn. Tất cả những gì trước giờ vẫn ám ảnh trong đầu tôi hiện lên mồn một trên màn hình! – Những ảo giác của cô quá đẹp! Tôi thích ánh sáng hòa lẫn vào nước biển xanh lơ…

– Anh có thể đứng ngoài và quan sát cơ mà…

– Vô nghĩa! Đứng ngoài nhìn và tan biến vào trong đó hoàn toàn khác nhau! Chỉ có cách này tôi mới được ở trong màu xanh lơ đó… Cô đã nói quá nhiều rồi! Màu xanh đó đang dần tan biến! Tôi không cho phép cô làm thế!

Hắn đè nghiến tôi xuống như muốn ấn sâu tôi vào địa ngục! Nhưng địa ngục không có đáy! Tôi thì không thích để kẻ khác ép buộc mình! Tuy nhiên không thể phủ nhận hắn thú vị hơn bất cứ anh chàng nào trong quá khứ vô đạo đức của tôi. Đôi bàn tay của hắn có dòng điện chạy qua, mỗi cái chạm vào đều thiêu đốt từng tế bào bên trong. Hắn có một cây đinh ba đầy quyền năng mà mỗi khi chạm đến sâu thẳm của tôi thì hắn lại làm các luồng máu của tôi dậy sóng. Hắn đang cố giết tôi bằng cây đinh ba ấy chăng? Tôi đau đớn tột cùng đến mức quằn quại! Làn nước màu xanh lơ giờ đây đã loang máu đỏ! Cây đinh ba của hắn đang đâm rách da thịt tôi! Nước muối mặn nồng cứa vào các vết rách như tra tấn. Còn mười đầu ngón tay của hắn chẳng khác nào như chiếc roi điện đang tra tấn tôi! Hắn đang cố giết chết tôi bằng mọi cách! Để làm gì chứ! Hắn muốn chiếm đoạt vùng biển yên bình này của tôi sao! Tôi nguyền rủa hắn cái thứ hắn đáng sở hữu chỉ là vùng biển chết ngập ngụa máu đỏ tươi tanh nồng!

Không thể thế được! Tôi dễ dàng chết thế sao! Qúa đủ rồi! Tôi giữ chặt lấy cây đinh ba của hắn, không cho hắn thọc sâu hơn nữa. Tôi đẩy hắn ra xa! Mùi máu tươi làm tôi trỗi dậy cơn thèm thuồng hoang dã! Tôi lượn một vòng quanh hắn! Dải máu đỏ quấn thành một xoáy nước tròn! Tôi lao vào hắn, đè hắn xuống đáy biển sâu! Hai bàn tay ghì chặt cổ hắn! Tôi muốn xé xác hắn như loài cá mập xé xác con mồi! Tôi muốn răng tôi nhuộm đỏ máu của hắn! Tôi muốn hắn chết và cây đinh ba của hắn chỉ còn là đống sắt vụn rỉ nát bị chôn vùi trong cát.

Hai tay hắn nắm lấy cánh tay tôi, cố vùng vẫy thoát ra! Vô ích! Đâu có dễ thế! Hắn nên học một bài học nhớ đời vì đã định chiếm đoạt ảo giác của tôi! Hắn giẫy đạp mạnh hơn khi lao xuống sâu. Ánh sáng bên trên mờ dần mờ dần! Nếu xuống sâu nữa có thể rằng cả hai chúng tôi sẽ không còn thấy dấu vết của ánh sáng đâu nữa.

Hắn bật dậy, ôm chặt lấy tôi trong tư thế ngồi! Hóa ra nãy giờ tình thế đã đảo ngược, hắn bị tôi đè lên trên! Bây giờ, chúng tôi ngồi trên bàn thí nghiệm! Bây giờ, đích thực hắn đang hôn tôi! Nụ hôn mơn man của gió. Lẫn trong cơn gió vị ngọt ngào của mật, cái cháy bỏng của lửa và sự man dại của loài thú đi hoang… Hơi thở của hắn mặn nồng cơn rì rào sóng biển bên tai tôi…

Chúng tôi đã lặn sâu lắm rồi! Không còn thấy ánh sáng le lói bên trên nữa! Chúng tôi đang chìm xuống dần dần! Vũng máu loang lổ tanh nồng cũng biến mất! Chúng tôi bị xoáy nước cuốn đi! Thân thể chúng tôi cuộn tròn theo xoáy nước! Tan dần, tan dần… Chỉ là hai luồng nước nhỏ quấn quýt lấy nhau rồi hòa giữa đại dương mênh mông, mênh mông! Dù không còn nhìn thấy ánh sáng nhưng chúng tôi vẫn nhận thấy mình đang ở giữa dạt dào xanh thăm thẳm. Màu xanh ấy cho chúng tôi biết rằng ánh sáng vô hình vẫn đang ở trong nước vô hình.

Ẩn dưới biển sâu luôn có một ngọn núi lửa! Khi mọi sự nén đã đủ độ, khi lòng Trái Đất sôi trào, núi lửa sẽ phun! Biển chấn động! Sóng thần dậy lên! Những cột nước bốc ngùn ngụt! Không còn biển nữa! Biển đã khô cạn rồi! Tôi đang bị nhốt giữa bốn bức tường trong suốt! Hắn đứng bên ngoài nhìn vào tôi, lại cái kiểu cười đáng ghét!

– Đáng ra cô đừng để ngọn núi lửa ấy hoạt động… Ngày mai, chúng ta sẽ mơ lại giấc mơ này!

Tôi nhún vai rồi thờ ơ nhìn lên trần nhà! Có thể đây chỉ là giấc mơ, có thể tôi vẫn đang nằm ở nhà và viết mấy điều vô nghĩa lý! Tôi mơ thấy mình đã tỉnh dậy và gặp hắn! Hắn có thể chỉ là một ảo giác trong đầu tôi! Hoặc có thể toàn bộ điều này là thật! Chẳng hề gì nữa rồi! Tôi đã biết rằng dưới đáy biển sâu ấy tôi sẽ tan biến hoàn toàn và đến một lúc nào đó, núi lửa sẽ phu trào! Dung nham sẽ đẩy tôi tới một thực tại khác nhạt nhẽo hơn và bệnh hoạn hơn! Giờ đây tôi chỉ được quyền lựa chọn chết giữa đại dương hay chết giữa một đống cứt đái ngập ngụa của loài người! Nhưng dù thế nào tôi cũng cần lắm một vụ nổ lớn với siêu âm thanh!

(12/2013)

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng 9 / page 3

Long Điểu truyện – Chương 5: Điểu Kinh

Tin đồn nữ thần Thanh Nguyệt bị Dã Quốc sát hại bay đến Điểu Kinh theo những cánh quạ của Ô Thị. Ngay khi Ô Thị nhận được tin báo rằng Dã Quốc bắt được nữ thần Thanh Nguyệt thì tin tức đã gửi tới cho Điểu vương. Điểu vương là kẻ đa nghi, nên trước tin ấy vẫn giữ vẻ bình lặng. Thậm chí, còn lập tức cho triệu hồi Điểu Thiên Hoàng về cung để mưu tính. Điểu Thiên Hoàng đành để lại thành Vũ Cầm cho các tướng soái cấp dưới, lập tức về Điểu Kinh. Đang trên đường về Điểu Kinh thì chàng lại nghe tin nữ thần đã bị giết chết.

Điểu Kinh nằm ở một vùng núi cao ngất phía Bắc Điểu gia, tách biệt hẳn khu đồng bằng ở phía nam. Nơi đây không có bình dân, chỉ có hoàng gia của Điểu tộc và những ông chủ bậc nhất chuyên phục vụ vua quan. Ngay cả quân đội cũng chỉ đóng ở ngoài xa, phía ngoại ô của Điểu Kinh. Phàm đã là người của Điểu tộc, không ai không biết cách tự bảo vệ mình, giữ quân đội trong kinh đô chỉ khiến cho nhiều nguy cơ hỗn loạn hơn.

Hoàng cung và phủ đệ của Điểu tộc đều nằm trên núi cao hiểm trở, kiến trúc đơn giản, trang nhã nhưng đều được làm từ đá cẩm thạch, vàng ròng và kim cương. Trước khi trở thành Chinh Nam tướng quân, còn là vương tử, Điểu Thiên Hoàng được phong núi Hồ Điệp, khuất xa chỗ ở của các quý tộc, ít người lai vãng, quanh năm sương mù bao phủ. Nơi đây quanh năm hoa vàng bao phủ, nên chàng đặt tên phủ đệ của mình là Hoàng Hoa Cung. Con gái chàng ra đời đúng lúc nữ thần Thanh Nguyệt, nên bị biệt giam trong Hoàng Hoa Cung từ nhỏ, chỉ thỉnh thoảng chàng mới được gặp. Nay nữ thần Thanh Nguyệt đã chết, chàng đã có thể gặp lại người con gái của mình. Chỉ cần vào bái kiến Điểu vương xong xuôi, bàn tính vài câu về thế sự, chàng đã có thể được ôm con gái vào lòng.

Hoàng tộc họ Điểu cai trị vùng đất phía Bắc từ thuở khai thiên lập địa. Ngôi báu không được truyền cho con trưởng mà truyền cho người có thể năng lượng phượng hoàng. Trong thế hệ của Điểu Thiên Hoàng, hoàng tộc có ba người có thể phượng hoàng là Điểu vương đương thời, phu nhân Điểu Tử Quỳnh và chàng. Tử Quỳnh từ bỏ thể phượng hoàng để đi theo quân phiến loạn của Chúc Thịnh Lai. Ngôi báu trở thành thứ tranh chấp giữa chàng và người anh trai của mình, có tên là Điểu Linh Hoàng. Nhưng chàng không nuôi chí lên ngôi báu, chỉ muốn được ung dung ở trong Hoàng Hoa Cung. Chàng từ chối tranh chấp ngôi báu. Điểu Linh Hoàng lên ngôi Điểu vương, liền tìm cách đẩy chàng ra trấn giữ thành Vũ Cầm ở phía Nam, ngăn cản quan đội của Long tộc.

Điểu vương biết cách dàn xếp các thế lực trong triều, ân uy đều đủ cả, thế nhưng luôn đa nghi, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ có người mưu phản, nên dần dần lòng người chán nản. Chàng bấy lâu nay đã chán triều chính, nhưng hiềm nỗi con gái chàng bị nhốt trong Hoàng Hoa cung, còn những bí mật chàng chưa giải mã được, nên đành phải nỗ lực vì những việc bất đắc ý.

Hoàng cung nằm ở ngọn núi cao nhất Điểu Kinh, mây mù che khuất từ lưng chừng núi. Đường lên núi lát đá cẩm thạch trắng đến lạnh người. Những bức tường chạy dài ốp vào thành núi cũng được làm từ cẩm thạch. Những hoạ tiết nửa kỳ bí, nửa phô trương dát vàng chạy dài dọc tường. Họa tiết mây ánh vàng tựa như lẩn cùng mây trắng, lấp lánh dưới cái nắng nhạt của mùa thu. Lẩn giữa mây là những họa tiết của chim phượng hoàng, chim đại bàng. Phượng hoàng và đại bàng là hai thể năng lượng của hoàng tộc họ Điểu. Trên bức tường còn rất nhiều họa tiết lạ kỳ khác mà chàng không hiểu, ví dụ như những vòng xoáy theo các khuôn hình khác nhau, những cột lửa uốn mình thành cánh chim đang vươn lên, những mảnh trăng khuyết xếp với nhau theo một trật tự bí ẩn.

Chính điện được dát bằng vàng với những dãy kim cương men dọc theo trần và tường. Những dãy kim cương ấy không phải để cho đẹp. Mỗi viên kim cương đều được mài nhọn và có khả năng sát thương lớn. Không một loại giáp nào có thể chống chọi được những mũi tên kim cương ấy. Chỉ Điểu vương có quyền điều khiển những mũi tên để tự bảo vệ mình khỏi những cuộc tấn công từ thích khách hoặc các thế lực làm phản. Thiên Hoàng nắm rất rõ chính hệ thống này, bởi chính chàng là người đã thiết kế chúng.

Điểu vương ngồi trên ngai vàng, hai ban văn võ đứng chầu hai bên. Thiên Hoàng đi giữa hàng quan lại, lòng lạnh như băng. Chàng không quỳ, chỉ cúi mình trước Điểu vương. Chàng là người duy nhất được đặc cách không cần phải quỳ gối khi hành lễ.

– Chinh Nam tướng quân Điểu Thiên Hoàng xin được diện kiến Điểu vương!

Điểu vương khoát tay, cười:

– Vương đệ không cần phải đa lễ. Tối nay ta sẽ mở yến tiệc để mừng vương đệ về kinh…

– Đệ có sự việc muốn bẩm báo… – Thiên Hoàng nghiêm giọng.

Điểu vương tắt nụ cười, lạnh nhạt:

– Các khanh lui ra!

Các quan quỳ mọp xuống vái chào rồi lui ra ngoài. Điểu Thiên Hoàng đứng im, không thèm ghé mắt đến hai hàng quan lại. Chàng đương nhiên không thể nhìn thấy những ánh mắt ghen ghét đang nhìn chàng với vẻ vừa bực tức, vừa lo sợ. Thiên Hoàng dù là mối lo ngại của Điểu vương nhưng lại là cánh tay đắc lực. Nơi đâu có những âm mưu len lỏi trong bóng tối, nơi đó sẽ bị Thiên Hoàng vạch mặt. Những sơ hở người khác không thấy, chàng chỉ cần lướt mắt là có thể thấu rõ chân tơ kẽ tóc. Nên khi chàng nói rằng “có sự việc muốn bẩm báo”, tức là một sự việc vô cùng hệ trọng.

Khi những viên quan đã lui hết, hầu cận của Điểu vương cũng đứng cách xa khỏi khu vực có thể nghe được, Thiên Hoàng mới bắt đầu nói:

– Tâu Điểu vương, thần có ba việc xin được bẩm báo!

– Ngươi nói đi! Việc nào trước cũng được!

Thiên Hoàng nói:

– Dạ thưa, sau khi Thịnh Lai bị giết chết, Tử Quỳnh phu nhân và nghĩa quân đã chạy lên phía Bắc, tạm thời sẽ không có gì đáng lo ngại. Hai đứa con của họ đang được nuôi dạy trong phủ Trấn Tây của Điểu Tùng. Dã vương hiện đang truy lùng hai đứa trẻ này, cùng với Thần Y Hoàng Tế Thiên –quân sư của nghĩa quân.

– Ý ngươi là nếu ta giao hai đứa trẻ cho Dã Quốc thì biên giới phía Tây sẽ tạm yên?

– Thưa Điểu vương, tuyệt đối không thể! Dã Quốc tuy là mối họa, nhưng cái họa từ bên ngoài không đáng sợ bằng cái họa từ bên trong. Nếu người giao hai đứa trẻ cho Dã vương thì Điểu Tùng sẽ ôm hận trong lòng. Với tài năng của hắn, quả thực muốn làm phản thì không phải việc khó. Nhưng nếu người giết hắn, không ai có thể trấn giữ được phía Tây yên ổn như thế!

Điểu vương nhăn mặt ngẫm nghĩ. Ngài ghét nhất là những kẻ luôn bất tuân nhưng lại không thể thiếu chúng trong triều đình. Chúng nghênh ngang, ngược ngạo, không chịu khom lưng uốn gối trước quyền lực của ngài, thậm chí sỉ mắng ngài bằng đủ cách, thế nhưng ngài vẫn phải cười nói với chúng. Thiên Hoàng là một kẻ như vậy, Điểu Tùng cũng là kẻ như vậy. Còn ai nữa nhỉ, phải rồi, ngài còn có một người anh trai nữa, một người không có thể năng lượng phượng hoàng.

– Thành Trấn Tây có thể giao cho Điểu Minh Hoàng, anh trai của chúng ta! Chẳng phải là an toàn hơn sao! Tài năng của anh ta mà không được sử dụng để trấn giữ một nơi trọng yếu thì phí hoài lắm!

Thiên Hoàng ngần ngại không đáp. Điểu Minh Hoàng là anh cả trong số ba anh em nhưng lại không có thể năng lượng phượng hoàng nên không có tư cách tranh ngôi báu. Điểu Minh Hoàng từ sớm đã xin ra cai quản ở phía Đông của Điểu tộc, không màng thế sự. Nhưng tin tình báo chàng nhận được lại cho thấy một Điểu Minh Hoàng khác. Minh Hoàng ẩn thân vùng phía Đông, vốn không phải là chỗ có trọng binh, thế nhưng lại có thể đào tạo dân thường quy củ như trọng binh triều đình. Qủa không đơn giản! Phía Đông là một dải biển dài, một nơi tập trung nhiều làng chài lưới. Từ ngày Minh Hoàng tiếp quản vùng phía Đông, dân chài ai cũng biết đánh võ, biết sửa sang thuyền đánh cá thành một chiến thuyền có súng bắn và có tốc độ lướt vượt bậc. Không màng thế sự mà có thể như vậy ư? Nếu đưa Minh Hoàng và trấn giữ một nơi trọng yếu như thành Trấn Tây thì chàng không dám lường trước việc gì sẽ xảy ra.

– Việc thứ hai thần muốn bẩm báo là… – Thiên Hoàng lảng sang chuyện khác, mắt nhìn thẳng vào Điểu Vương như muốn thôi miên ngài quên đi cái ý định của ngài đi – triều đình Long tộc đang có tranh đoạt ngôi báu. Long vương ra lệnh trong số hai người con Long Phi Vũ và Long Phi Thiên, ai có thể đè bẹp thành Vũ Cầm, lấy được mạng thần, thì ngôi vị sẽ được giao cho người ấy. Thần còn được biết, Long Phi Thiên có mối quan hệ thầm kín với vợ của Long Phi Vũ, nên lần này hẳn sẽ cố sức chiếm ngôi. Việc truy giết thần và hạ bệ thành Vũ Cầm khó khăn hơn nhiều so với việc hạ sát nhau, nên chúng ta cứ chờ xem kịch hay nhà Long tộc.

Điểu vương quả nhiên hào hứng với tin này. Thấy địch thủ của mình tranh đấu nhau là sở thích của Điểu vương. Bởi trong tình thế ấy, những bên đấu nhau đều “lưỡng bại câu thương”, chỉ kẻ ngồi xem là được lợi.

– Long vương sợ vương đệ của ta đến ám ảnh rồi! Hắn làm thế thật chẳng khác nào cho chia rẽ con cái của mình. Thật chẳng được gắn bó như anh em chúng ta!

Thiên Hoàng cười một nụ cười cho có. Trong khi cười, chàng thấy giọng mình đắng nghét. Phải rồi, tình anh em gắn bó đến mức giam lỏng con gái chàng bao năm nay. Đứa con gái ấy từ khi ra đời đã mất mẹ, lại phải sống xa lìa cha. Nghĩ đến đó, chàng thở dài rồi quỳ xuống hành đại lễ:

– Còn một việc cuối, thưa Điểu vương! Nữ thần Thanh Nguyệt đã bị giết, Thiên Phụng không phải là nữ thần Thanh Nguyệt, nó còn nhỏ tuổi đã phải mất mẹ lìa cha, cảnh ngộ thực sự đáng thương. Mong Điểu vương cho thần được đón con gái đến thành Vũ Cầm cùng với thần. Thần một mình nơi biên ải, quả thật cũng rất cô đơn.

Điểu vương tắt ngay sự hào hứng trên nét mặt. Lòng trỗi lên sự nghi ngờ đối với Thiên Hoàng. Nhưng cân nhắc một lúc, ngài thấy rằng không nên khiến Thiên Hoàng bất đắc ý. Suy cho cùng, từ đầu Thiên Hoàng đã không tranh ngôi báu thì không có lý gì bây giờ lại muốn lật đổ ngài. Hơn nữa, chỉ cần vài gián điệp cài vào làm thị nữ theo dõi là có thể nắm được biến động ở thành Vũ Cầm.

– Được! – Điểu vương khoát tay đồng ý – Nhưng ta có một điều kiện… Hai đứa con của Thịnh Lai và Tử Quỳnh, không được để cho chúng sống. Chúng phải chết! Nghiệt chủng pha tạp giữa Điểu tộc và loài khác vốn dĩ không thể lường trước nguy cơ. Cứ giết đi là hơn!

Thiên Hoàng trừng trừng mắt nhìn Điểu vương, cảm thấy ghê rợn. Nhưng Thiên Phụng, con gái chàng, quan trọng hơn hết thảy. Nếu để Thiên Phụng ở trong tay một kẻ như Điểu vương, Thiên Hoàng bội phần lo lắng.

– Dạ vâng, thưa Điểu vương! Thần xin phép được lui về Hoàng Hoa cung.

Cuộc gặp gỡ với Điểu vương chấm dứt, Thiên Hoàng thở phào nhẹ nhõm. Mỗi lần gặp Điểu vương, đầu chàng đau như búa bổ bởi những suy nghĩ chen lấn nhau. Chàng không thể ngừng phán xét mọi hành vi, lời nói và cách suy nghĩ của Điểu vương. Nhưng phận làm em, làm bề tôi, lại không cho phép chàng như thế. Những ham muốn làm phản trỗi dậy, nhưng điều chàng thực sự đeo đuổi không cho phép chàng được liều mình. Sự hối hận với hành vi ngông cuồng và lười biếng tuổi trẻ dâng lên khiến chàng tức ngực. Chỉ vì ham mê đuổi theo những hiểu biết mà người thường không hiểu được, chàng đã giao lại ngôi báu cho một kẻ hèn hạ, đa nghi. Những điều Điểu vương làm không vì Điểu tộc, không vì muôn dân, cũng không vì lý đúng sai, mà chỉ vì quyền lực của bản thân. Thậm chí, ngay cả trong giấc mơ quyền lực, Điểu vương cũng không dám tham vọng lớn hơn, chỉ mong ở mãi trong xó núi này ôm lấy ngai vàng.

Chàng bất chấp lệnh cấm không được sử dụng thể phượng hoàng ở Điểu Kinh, dang rộng đôi cánh bay về phía Hoàng Hoa cung. Chỉ có cảm giác được bay, chàng mới quên đi những suy nghĩ và cảm giác ấy. Chàng lẩn vào lớp mây mù, không phải để trốn, mà để không phải nhìn thấy bất cứ hình ảnh nào phía dưới kia. Chàng cần một màu trắng tinh khiết, trắng như màu của mây, để quên đi tảng đá đeo nặng trong lòng chàng mỗi khi chàng về Điểu Kinh.

Mặc dù bay trong mây và sương nhưng Thiên Hoàng chưa bao giờ quên đường về Hoàng Hoa Cung. Đến gần núi Hồ Điệp, chàng hạ cánh xuống, Chàng muốn được tản bộ trên con đường núi với cảnh sắc thoát tục nơi đây. Đi qua lớp sương mù, núi Hồ Điệp hiện ra rợp hoa vàng, men theo vách đá và chạy dài bên bờ suối. Một túp lều nhỏ bằng gỗ được dựng bên bờ suối, bài trí đơn giản, rèm lưa thưa ám hơi nước mờ, chuông gió lách tách thư thái. Đây là nơi chàng dựng lên để gặp gỡ bạn bè. Chàng không muốn cho người ngoài được phép bước vào sâu trong núi. Những tham vọng bẩn thỉu của người đời sẽ làm ô uế nơi đây mất.

Đằng sau thủy đình có một cầu thang cheo leo dẫn lên núi. Cầu thang ấy là giả. Những cái bẫy chết người đã được cài sẵn. Đường lên núi là tự chèo thuyền, ngược dòng suối lên đến thượng nguồn. Nhưng con đường đó là dành cho người ngoài. Người ngoài không thể bay vào Hoàng Hoa cung được, kể cả Điểu vương, mà buộc phải đi thuyền. Một kết giới đã được thiết lập để không ai có thể tự ý ra vào Hoàng Hoa cung. Bất cứ ai muốn bay vào Hoàng Hoa cung, nếu không phải Thiên Hoàng và Thiên Phụng đều sẽ bị hàng vạn con bướm tấn công bằng một sóng âm đặc biệt được tạo ra bởi nhịp đập đồng loạt của cánh bướm.

Tuy vậy, Thiên Hoàng vẫn muốn vượt suối. Cảm giác được cưỡi trên con thuyền gỗ, đi ngược lại dòng chảy của nước luôn khiến chàng mơ hồ mường tượng rằng mình đang vượt qua số mệnh. Chỉ có những kẻ dám vượt qua số mệnh của mình mới xứng đáng đặt chân vào Hoàng Hoa cung. Ẩn ý của lối vào này là thế.

Hoàng Hoa cung nằm ở lưng chừng núi Hồ Điệp. Toàn bộ được xây bằng gỗ, nhìn đơn giản nhưng vẫn thanh nhã và bề thế.  Không có những họa tiết phức tạp, không có những vũ khí ngầm, chỉ có những cánh bướm dập dềnh trôi theo gió. Ít ai biết được rằng, chính những cánh bướm tưởng như vô hại ấy lại là thứ vũ khí lợi hại nhất bảo vệ Hoàng Hoa cung.

Thiên Hoàng bỏ giày ở ngoài, dẫm chân trần lên sàn gỗ của Hoàng Hoa cung. Chỉ nơi đây chàng có thể được đi trên đôi chân trần của mình. Chỉ nơi đây đủ thanh sạch để khiến chàng không cảm thấy ghê tởm những thứ bẩn thỉu vô hình bám trên người chàng. Chàng bước thật nhẹ để cảm nhận, và cũng để gây bất ngờ cho Thiên Phụng.

Mỗi năm, chàng được gặp Thiên Phụng đôi ba lần. Lần nào con bé cũng nằm trong suối nước nóng sát vách núi ngủ quên bên quyển sách. Lần này cũng thế. Cô bé Thiên Phụng mới ba tuổi, nhúng nửa người trong nước nóng, nửa người trên khoác tấm lụa vàng dựa vào vách đá. Một tay cô bé buông thõng theo làn nước, một tay gác lên phiến đá bên cạnh vẫn cầm không buông cuốn sách.

Thiên Hoàng mỉm cười đến gần, gõ cuốn sách ra khỏi tay cô bé. Cô bé vẫn ngủ say không biết gì. Thiên Hoàng lắc đầu cười. Chàng nhấc bổng cô bé lên, lấy một tấm lụa khô lau sạch người của cô bé. Lúc này, cô bé mới choàng tỉnh. Cô bé reo lên, ôm chặt lấy cổ Thiên Hoàng:

– Cha…

Thiên Hoàng nói giọng vừa trách mắng vừa dỗ dành:

– Sao lại ngủ quên trong suối nước nóng như thế… Thị nữ đâu cả rồi?

Thiên Phụng phụng phịu:

– Con đuổi hết đám thị nữ đi rồi! Chúng khiến con không vừa mắt! Đến nấu ăn cũng không biết làm con vừa miệng.

Thiên Hoàng ấn vào trán Thiên Phụng khiến cô bé đưa tay xoa xoa trán:

– Thật là đỏng đảnh! Không ăn cơm thì ăn gì?

– Con hút mật hoa là được rồi! Với cả hàng ngày, thế tử đều cho người mang thức ngon đến cho con… Con không lo chết đói!

Thiên Hoàng nhíu mày:

– Thế là nhờ thế tử mang thức ngon đến cho con chứ đâu phải con hút mật hoa qua ngày được. Mà không ăn được thì cũng thôi đi, đằng này ngủ quên trong suối nước nóng, có ngày làm ma sặc nước đó!

Thiên Phụng bĩu môi:

– Cha đi lâu như vậy còn trách con… Con thành ma sặc nước cũng được, thành ma rồi con sẽ đến thành Vũ Cầm ở với cha, như thế sẽ không phải xa cha!

Thiên Hoàng quát:

– Nói bậy! Đi! Thay y phục, cha đưa con ra phố chơi, kiếm một quán ăn ngon, ngắm cảnh đẹp!

Thiên Phụng reo lên sung sướng, nhảy khỏi tay Thiên Hoàng, vứt tấm lụa vàng quấn người xuống đất rồi lon ton không quần không áo chạy đi tìm y phục mới. Thiên Hoàng nhìn hành vi của cô bé, vừa thấy thích thú lại vừa lo sợ. Một sự hoang dại tinh khôi ẩn trong con người của Thiên Phụng. Sự hoang dại ấy hồn nhiên như bông hoa, như cánh bướm, như vầng trăng. Nhưng đời người liệu có chấp nhận được sự hoang dại ấy. Sự hoang dại đó lại không được phép mất đi, bởi sự hoang dại có sứ mệnh riêng của mình.

Hà Thủy Nguyên

Đọc các chương của Long Điểu truyện tại đây: https://hathuynguyen.com/tag/long-dieu-truyen/