Home 2018 / page 4

Thưởng trà dưới mưa

Nhấp một ngụm trà
Lay mưa
Lưa thưa ai đứng bên gò
Oan hồn chợt tan lòng oán
Thây tàn hư vô
Chuông chiều vọng vọng nấm mồ

Người dịu lại sau cơn cuồng nộ
Lòng tro tàn thấu suốt cõi nhân gian
Hương trà thoảng một chút tơ thanh thoát
Say và say, thi tửu cũng nhạt nhoà

Có những mùa mưa đến và đi
Một chung trà biệt ly rồi tụ hợp
Ai uống cùng người
Lạnh
Cô quả hồng trần
Kiếp thần nhân
Lạc giới đến đây ngắm đau thương
Với cõi lòng trống trải

Người ngồi bên đại mộ ngắm mưa rơi
Rót một chung trà
Oán nhân lánh cả
Mây đã phủ dung nhan
Mơ màng sáu cõi
Người ngâm thơ nhàn

Ai đã đi qua mưa rơi
Sẽ thấm hơi trà lơi lơi
Sẽ thấy hận đời tiêu tán
Hỉ lạc sầu bi
Tất thảy rã rời
Giám ngục kia khép của rồi
Phòng giam trống rỗng âm ti

Người gẩy điệu vô vi
Trà đã nhạt màu
Mưa đã đi
Và ta cũng đi…

Hà Thủy Nguyên

Home 2018 / page 4

Long Điểu truyện – Chương 19: Phượng Hoàng Ca

Khúc đồng ca vang vọng, vọng sâu tới cõi lòng Dã Vương. Cõi lòng hắn cuộn lên trăm muôn ký ức của Chúc Thịnh Lai. Hắn vừa né đòn của Thiên Phụng vừa bay về phía tường thành. Thiên Phụng lập tức đuổi theo, nhưng do bị thương nên bị bỏ lại một đoạn.

Dã Vương từ hai lòng bàn tay toé ra tia lửa đen. Hắn ném hai cuộn lửa về phía Vương Minh. Dưới chân thành chỉ vang lên tiếng hét:

– Cha! Cẩn thận! – Đó là Vương Lâm. Cậu bé đã cưỡi sói trở lại chiến trường.

Hai cuộn lửa đen của Dã Vương giáng xuống, Vương Lâm đã thấy rất gần nhưng không thể nào tránh kịp, chỉ sững sờ giương mắt. Thiên Phụng vừa hay đứng chắn trước cuộn lửa, giang rộng đôi cánh hứng trọn. Lửa đen ám vào bộ lông vàng óng ánh của phượng hoàng khiến cô bé quằn quại rú lên đau đớn.

– Quả nhiên ngươi không phải Điểu Thiên Hoàng, hắn là ai chứ? Hắn không bao giờ chịu mất một cọng lông vì người khác.

Dã Vương ném dồn dập lửa đen vào chim phượng hoàng, nhưng cô bé vẫn giương cao đôi cánh. Lửa đen không nóng rực mà lạnh lẽo thấu xương, đau giống bị hàng vạn mũi kiếm róc rỉa từng thớ thịt da. Tuyết lúc này rơi càng nặng hơn, gió vun vút lướt qua tai cô bé.

“Phượng hoàng ơi

Phượng hoàng ơi

Sao nỡ ra đi trong chơi vơi”

Tiếng đàn tích tịch tình tang thong thả vọng ra từ phòng điều khiển. Tiếng đàn tuy đơn độc nhưng uy lực chấn tứ phương, có phần mãnh liệt hơn cả dàn đồng ca binh sĩ.

Bóng trăng vằng vặc giữa trời

Những lời nguyện ước muôn đời chẳng phai…

Phượng hoàng ơi! Phượng Hoàng ơi!

Mau dậy thôi, dậy đi thôi!

Chập chờn bướm lượn trên đồi

Nằm nghe hờ hững tiếng đời dần trôi…

Điệu nhạc khiến Thiên Phụng sáng rực lên dù lửa đen đã bám lấy toàn thân cô bé. Ánh sáng mỗi lúc một chói loà thành một quầng trắng xoá. Bầu trời dời đổi. Những đám mây đen tan biến, tuyết lặng.

Này chốn bồng lai

Này tiên cảnh

Này suối nỉ non

Này bướm dập dềnh

Ngủ vùi chôn hết tâm tình

Sống đời nhàn hạ sao lòng buồn tênh

Nhìn kìa biển rộng

Nhìn kìa mây xanh

Nhìn vào đôi mắt long lanh

Ai đem giăng sáng giãi thành lệ tuôn?…

Bầu trời lộ rõ đã vào giữa đêm khuya. Ánh trăng sáng vằng vặc giữa nền trời thuỷ tinh trong vắt. Ánh trăng vàng chuyển dần sang sắc xanh dịu. Thiên Phụng lắc mình bay lên cao hoà vào ánh trăng xanh, biến ảo thành một bóng hình thiếu nữ mờ mờ trong quầng sáng.

Dã Vương nhìn lên mặt trăng đã chuyển hẳn sang màu xanh, nghiến răng:

– Nữ thần Thanh Nguyệt… Điểu Thiên Hoàng, ngươi dám lừa ta!

Hắn phi thân bay lên mặt trăng, nộ khí hừng hực, toàn thân bốc lên ngọn lửa đen sì. Luồng sáng của ánh trăng xanh dịu dàng lan toả, hắn càng đến gần thì lửa càng tắt lịm. Ánh trăng xanh lướt qua gương mặt trắng bệch của hắn, trong đầu hắn vang lên đủ thứ tiếng nói của những ký ức tràn ngập yêu thương và đau đớn.

Hắn gằn giọng:

– Được lắm Điểu Thiên Hoàng! Điểu tộc của ngươi sẽ chẳng bao giờ được yên!

Dã Vương quay lưng bay ngược về phía Tây thét lên một tiếng rền rĩ:

– Rút quân!

Đại quân của Dã quốc thất thểu chạy theo sau vương chủ của chúng. Vương MInh thở phào nhẹ nhõm, ngước mắt nhìn lên bầu trời, khẽ mỉm miệng cười:

– Không ngờ lại là thật… nữ thần Thanh Nguyệt…

Vương Minh ra hiệu cho quân rút lui vào trong thành. Lúc này, Điểu Thiên Hoàng mới xuất hiện. Người gảy đan hát khúc phượng hoàng ấy chính là chàng. Điểu Thiên Hoàng thở dài:

– Mong rằng chuyện ở đây, tướng quân không tiết lộ ra bên ngoài!

Vương Minh gật đầu:

– Quả là được mở rộng tầm mắt! Tướng quân bấy lâu nay lao tâm khổ tứ bảo vệ nữ thần, quả không phải chuyện dễ dàng!

Ánh trăng xanh bắt đầu nhạt dần. Mặt trăng lộ ra sắc vàng. Thiên Hoàng nhìn lên trời, chau mày hốt hoảng:

– Nguy rồi, Thiên Phụng sắp không chịu được!

Trên nền trời, màu xanh huyền ảo lịm đi. Tuyết lại bắt đầu rơi. Từ trên cao, con chim phượng hoàng cánh tả tơi máu rơi xuống. Trong nháy mắt, Vương Lâm vốn đang đứng gần đó, đã thúc sói nhảy lên cao, đỡ lấy chim phượng hoàng. Con chim hiện hình thành cô bé Điểu Thiên Phụng khắp người đầm đìa máu, đang run rẩy mê man. Vương Lâm ôm chặt cô bé, phi sói về phía tường thành.

Ôm Thiên Phụng trong vòng tay, trái tim Vương Lâm đập mạnh thổn thức. Cậu bé thấy hiện trong tâm trí của mình hình ảnh bản thân lúc đã trưởng thành, ghì chặt chặt một thiếu nữ xinh đẹp, chính là hình bóng của nữ thần mặt trăng xanh. Tất cả đều rất chân thực và hiện hữu. Trong ảo ảnh cậu thấy môi mình lướt trên môi người thiếu nữ, hôn một nụ hôn đầy đam mê và dục vọng. Hai má cậu đỏ bừng xấu hổ, chân cố thúc sói phi nhanh vào trong tường thành.

Ngay khi Vương Lâm đưa Thiên Phụng vào đến thành thì cửa thành bắt đầu hạ xuống. Vương Lâm trao trả Thiên Phụng cho cha cô bé rồi chạy đến gần cha mình. Vương Minh xoa đầu con trai:

– Làm tốt lắm, con trai! Đúng là thủ lĩnh của bầy sói.

– Bao giờ cha về với mẹ con con?

Vương Minh lắc đầu cười không nói gì. Vương Lâm “Hừ” một tiếng:

– Trong lòng cha chỉ có Chúc phu nhân và con cái của bà ta chứ đâu có mẹ con con!

Nói đoạn, cậu bé hất tay Vương Minh, nhanh như cắt nhảy lên lưng sói rồi phi ra khỏi tường thành. Vương Minh toan gọi lại thì Thiên Hoàng ngăn:

– Không sao! Cậu bé bản lĩnh hơn người… Sau này ắt có duyên nợ với con gái ta.

Lúc này, Chúc Thái Sơn mới xuất hiện. Cậu bé nhìn Thiên Phụng khắp thân đẫm máu, không thể kìm nổi nước mắt rơi ra từ khoé mắt:

– Quận chúa… quận chúa…

Thần Cơ và Điểu Âu cũng dắt tay nhau chạy đến. Thiên Hoàng thấy Thần Cơ liền bảo:

– Cháu đi cùng ta, giúp ta chăm sóc cho Thiên Phụng.

Thần Cơ nhăn mặt khó chịu. Cô bé ghét nhất là có người sao bảo mình. Nhưng nghĩ lại thì dù sao Thiên Phụng cũng cứu biết bao mạng người trong thành Trấn Tây nên Thần Cơ đanh dồn cơn tức xuống, lon ton đi theo Điểu Thiên Hoàng.

Thành Trấn Tây lại trở lại yên bình. Điểu Tùng được Hoàng Tế Thiên đưa về phủ Trấn Tây theo con đường địa đạo trong hang ngầm. Vết thương của chàng đã được chữa lành. Vết thương của Thiên Phụng cũng đã khỏi, nhưng cô bé vẫn mê man bất tỉnh nhân sự Trong cơn mơ, cô bé lẩm bẳm những điều xa lạ chẳng ai còn nhớ rõ. Tế Thiên lần đầu cầm vào tay cô bé để bắt bệnh thì ngay lập tức bị cuốn vào một đoạn ảo ảnh đứt nối về một thế giới sụp đổ. Tế Thiên giật mình rụt tay lại với ánh mắt lo lắng:t

– Những ảo giác này…

Thiên Hoàng đứng bên cạnh tiếp lời:

– Đó ko phải là ảo giác, đó là ký ức. Đó là năng lực của nữ thần Thanh Nguyệt. Thế giới chúng ta đang sống đây mới chính là ảo giác. Nhưng có cách nào khác đâu ngoài việc tranh đấu để chọn cho mình một ảo giác tốt đẹp hơn. Khi nào những bí mật của nữ thần được hé lộ thì chúng ta sẽ thoát khỏi đây!

Tế Thiên im lặng. Những điều Thiên Hoàng nói quá mơ hồ, sao có thể tin cho được! Chàng chợt nghĩ: “Dã Vương muốn săn lùng để giết chết nữ thần bằng được, chẳng lẽ vì lý do này…”

– Thiên Phụng sở dĩ bị mê man vì không thể thoát khỏi tâm cảnh của ký ức. Bình thường con bé ngủ rất nhiều, sở dĩ cũng là do vậy! – Thiên Hoàng nói tiếp – Tế Thiên, ta muốn ngươi tìm cách ức chế não bộ của con bé, để những ký ức không phát tiết bất ngờ. Nó sẽ không nhớ gì về chiến công hôm nay của nó, không nhớ rằng nó là nữ thần, không nhớ ký ức của nhiều kiếp trước. Nó sẽ chỉ nhớ thân phận Điểu Thiên Phụng, quận chúa Điểu tộc của mình mà thôi.

Tế Thiên e dè:

– Việc đó không khó… nhưng… ta e làm vậy khó lường được hậu quả!

Thiên Hoàng cười lớn:

– Ngươi sai rồi! Hậu quả gì cũng không đáng sợ bằng việc để Dã Vương phát hiện ra thân phận thật của nó, truy bắt nó và giết nó giữa bàn dân thiên hạ để thị uy.

Tế Thiên ngập ngừng nhưng cũng đã đồng ý:

– Ta cần một người có luồng năng lượng lớn, thuần khiết để tác động vào não của quận chúa. Năng lượng của ta đã quá tạp do phải thử nhiều phương pháp khác nhau. Vương Minh thì không đủ mạnh. Cả hai vị tướng quân các ngài đều bị thương nặng. Bây giờ thực sự là…

– Còn có cháu! – Thần Cơ đẩy cửa đột ngột bước vào – Cháu đủ mạnh. Cháu cũng muốn nhân dịp này hết nợ với tướng quân đây… Cháu không muốn nợ Điểu tộc.

Hà Thủy Nguyên

Đọc các chương của Long Điểu truyện tại đây: https://hathuynguyen.com/tag/long-dieu-truyen/

Home 2018 / page 4

Trường ca Hồ Khúc

I – Hồ mộng

Ta gẩy đàn khung trời đã cũ

Khúc trăng sao xao động đáy Tây Hồ

Ta ẩn mình nơi sương

Cửu vĩ hồ ve vuốt tơ sen

Duyên ai ấy à se dang dở

Cho ai ấy à tương tư

Trăng ấy à ánh bạc

Thơ ấy à đang nhen

Ký ức dâng lên tràn căng bầu ngực

Ứa tình nhân gian

 

Hỡi ai chính nhân quân tử

Luyến ái ta ư?

Sợ ta ư?

Có nghe ta cười nói đêm thâu

Hay đã lấp đầy lời thánh nhân vô nghĩa

Ta cô độc gẩy khúc tình hoan lạc

Ta với ta đối ẩm cùng trăng

Hương sen mơ, hương sen mơ

Sóng Tây Hồ hay sóng hải sa

Ta trút bộ lông hồ tinh đã cũ

Thoát hình hài, thoát cả bóng dáng xưa

Ta nhập vào điệu khúc

Ta nhập vào nhân duyên

Dân dân nước nước ta không bàn đến

Khách phàm nhân sao hiểu thấu lòng ta

Cứ ra rả

Lời trung nghĩa đã mòn nhân loại

Lẽ đúng sai

Mớ tơ nhện rối bùi

 

Ta sẽ chôn mình trong giấc ngủ vùi

Trong cơn mơ ta thấy mình giác ngộ

Tâm chẳng bận một chút tơ trần thế

Chẳng cơn mơ quấy quả cuộc thanh tu

Ở mãi giữa mùa thu

Nơi ranh giới hai bờ sống chết

Hai bờ mê mê tỉnh tỉnh

Nhưng tất thảy chỉ là cõi vô minh

Ta trói buộc thân ta nơi chứng ngộ

Tấm áo thanh tu sao nặng thế

Ai cởi dùm ta chăng?

Cơn mơ sao sâu thế

Ai đánh thức ta chăng?

 

II – Hồ duyên

Ta trần truồng sau cơn mê mộng

Rửa trôi bụi ham muốn giấc mơ xa

Ta ẩn thân trong một kiếp cầm ca

Nhúng xác thần nơi bùn nhơ hạ giới

Nơi vũng lầy của những điều tăm tối

Được trang hoàng bởi ngàn đoá sen tươi

Những nấm đất chôn oán hồn canh mộ

Những hầm sâu tới địa ngục tanh hôi

 

Ta loã lồ bên đầm sen ngày ấy

Đợi thánh quân để thức tỉnh ngôi thần

Để mây mưa gột sạch lòng ham muốn

Suối Tham kia đà phong ấn linh thần.

Ngai vàng để mà chi

Muôn dân quỳ dưới đất

Tôn vinh ngài nơi lăng tẩm

Ướp hồn ngài trong nấm mộ

Để rút cạn tinh linh nuôi kẻ xa lạ đớn hèn

Anh hùng ư? Nào có để làm chi

Muôn dải đất rồi cũng tro tàn xương cốt

Mệt mỏi chăng nơi lầu son gác tía

Sách thánh nhân đè nặng tấm lưng gầy

 

Ta đã mệt nơi Long Thành chật hẹp

Khúc đàn trăng chẳng động vạn tầng không

Ta đã chán làm một kiếp cầm ca

Làm bông sen quân nâng niu âu yếm

Ta bước khỏi bầu trời đã cũ

Lướt sóng dập dềnh

Lênh đênh bể trầm luân

Nơi chẳng đâu là bờ bến

Ta hư vô gẩy dăm điệu trăng sao

Và ngây ngất vò rượu thơ lai láng

Nợ hồng trần tựa kim giữa biển khơi

 

III – Hồ hải

Cuộc gặp gỡ của đôi người lý tưởng

Biển vô biên

Và vũ trụ vô chừng

Ta lai láng ứa một dòng ký ức

Bộ ngực căng cho duyên nợ lên tình

Chàng chẳng bợn một chút hơi trần thế

Đeo đuổi hoài tuyệt đích của hư vô

Ta tuyệt đích nhất tiếu khuynh nhân thế

Ta hư vô chẳng thèm áo thanh tu

Ta trong trắng, ô, cần chi y phục

Chàng tiêu diêu nào biết lẽ thánh nhân

Cùng gảy khúc tơ tình

Biển ánh màu trăng

Trắng da thịt gợi hồn mơn trớn

 

Trận mây mưa dập dềnh theo cánh sóng

Biển vỗ thuyền

Trăng vỗ gió biển vang

Ta và chàng ân ái điệu vô vi

Kìa vũ trụ đã chuyển vần thanh sắc

 

Ta và chàng lặng im không tiếng nói

Bể trầm luân đưa đẩy mặc thời gian

Ta ôm chàng rớt giữa mộng nhân gian

Giữa phàm trần không giàu sang phú quý

Cũng chẳng chút hùng tâm tráng chí

Chỉ mơ hồ ghi nhớ lý tưởng xa

Chàng ôm ta thây kệ đời lướt qua

Cho đến khi xa vắng cả

Có gì đâu, cố nhân như bóng ma.

 

Nơi biển khơi ta thức tỉnh

Chàng đã đi, ơi hỡi, chàng đã đi

Để giữ mãi phút giây tuyệt mĩ

Ta sẽ về đâu

Này biển có sâu

Ta chìm xuống cùng ngươi

 

IV- Hồ mệnh

Ta thoát thai tự bao giờ chẳng rõ

Quên mệnh thần cho nhẹ nợ nhân sinh

Điệu khúc xưa ta đã quên chẳng nhớ

Và đời trôi, ai lạc lối ai rồi

 

Ta vô tư viết vần thơ ký ức

Tự trói mình nơi duyên nợ xa xưa

Trong cơn mơ sóng lênh đênh chìm nổi

Ta nào nhớ nổi ta xưa

 

Những đêm trăng ngực căng tròn ký ức

Trắng dục tình không níu kéo tơ duyên

Chỉ nỗi buồn còn lại

Cố nhân hồn có tan?

Có nhớ ta giữa trần gian?

 

Ta vẫn nằm đây, Long thành chốn cũ

Vạn vạn đổi thay chẳng che lấp hồn ta

Ta lại lạc giữa đêm thu

Những đêm ma đi dạo

Khi sống chết phủ sương mù

Bóng cửu vĩ phe phẩy ánh trăng

Ta nhập lại hoá thân

Cho vui cuộc phong trần

Mặc nước mặc dân

Mặc giàu sang phú quý

 

Ta gặp lại thánh quân

Ta gặp lại cố nhân

Chỉ mỉm cười cạn chén

Tơ duyên này ta mặc ai se

Và ta hát cổ khúc ngàn xưa.

 

V – Hồ ly tự khúc

Ha ha

Ha ha

Ha ha ha

Nghiêng trận cười

Điêu tàn loài người

Điệu hồ ly quay cuồng cõi xa vời

 

Ta bày cuộc chơi

Đâu nào loài người

Khoác bào trăng – văng vẳng đồng cổ vọng

Cởi thực tại – lồng lộng hàn phong phiêu

Xác hoa bay bay mùa mạt thế

 

Này ta nốc vò rượu độc

Máu cuộn trào cơn lốc ào ào

Hồn hỡi hồn gào

Hộc máu sử thi

 

Đâu nào loài người

Cưỡi cuồng vân – ngất ngây men dã cổ

Hủy luân thường – lãng đãng thú hoan ca

Điệu cười man man mùa mạt thế

 

Này ta xé lụa dưới mưa

Cười nghiêng trái đất ngàn xưa

Hồn hỡi hồn mơ

Nhuốm màu cổ nguyệt

 

Đâu nào loài người

Biệt nhân thế – tiêu diêu miền sơn cước

Xóa thánh nhân – chấp chới xứ mây bay

Cơn say mờ mờ mùa mạt thế

 

Cuộc chơi ai thành ai bại

Cười một trận oán thù phai

Hồn về trong hạt sương mai

Hồ ly say nuốt một vài điệu ca

 

Cuộc chơi ngà ngà

Mây khói la đà

Trăng đã già

Ta là ta hay ai là ta?

 

Bên kia bờ thực

Ai thổi điệu ngân nga

Đợi bạn trà…

 

Lảo đảo bờ ảo

Rượu hay trà?

Hoan ca hay trầm mặc?

Bên kia mờ mờ bạch sắc

 

Ta nguyện chết giữa hai bờ thực ảo

Dòng sông xanh rờn rợn bóng tinh cầu

Yên ba vỗ vỗ nhạc sầu

Hồ ly ta hát dăm câu

Buông xuôi – trà rượu nhạt màu

 

Xác hoa phủ kín, men trăng thoảng hồn…

 

Hà Thủy Nguyên

 

Home 2018 / page 4

Long Điểu truyện – Chương 18: Dã Vương

Một mình Thiên Phụng trong thể năng lượng phượng hoàng chao lượn giữa bầu trời, vừa để phả lửa đốt cháy kẻ địch, vừa tránh mũi tên và khí độc của binh đoàn bất tử. Những linh hồn thoát ra khỏi vỏ áo giáp tụ lại thành một khối mây xám xịt. Mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng con phượng hoàng mà Thiên Phụng biến hoá lại rất lớn, ngang ngửa với Điểu Thiên Hoàng, nên đám người Dã Quốc không thể ngờ được rằng kẻ đang thiêu huỷ binh đoàn bất tử kia chỉ là một cô bé con hay lười biếng và vô phép tắc. Hoa nương nương và Sái Thương trông mà hết hồn hết vía, tìm cách rút lui cho nhanh chóng.

Binh đoàn bất tử đã vơi đi nửa quân số mà Thiên Phụng vẫn còn hăng máu chém giết. Đám mây đen trên trời mỗi lúc một phình to, đã bao trùm cả chiến trường rộng lớn. Trời tối sầm lại, lặng gió. Không khí oi nồng bốc lên mùi hôi thối của xác chết. Thiên Phụng thấy vậy, ngưng đốt phá, bay về phía đám mây đen. Cô bé khè lửa vào đám mây nhưng chúng không hề suy chuyển, vẫn cứ tiếp tục bay về bức tường thành.

Ngồi trong trung tâm điều khiển, Thần Cơ, Thái Sơn và Điểu Âu cũng nhận thấy tình hình nguy ngập. Ba đứa trẻ không biết đám mây đen kia là cái gì, nhưng chắc chắn là chẳng hay ho rồi. Thần Cơ nói:

– Mây độc này sợ nguy đến tính mạng… Mong là quận chúa sẽ không nghịch dại.

Thái Sơn tiếp lời:

– Cách tốt nhất bây giờ chỉ có dùng quạt thôi, mà như thế thì tường thành lại mở!

– Không được! Bọn lính kia xông vào, ta làm sao chống nổi!

Điểu Âu vỗ đùi:

– Phải rồi! Bọn này mà bị phát nổ thì chắc tan thôi. Kho thuốc nổ của ta còn nhiều lắm! Mìn chôn dưới đất này, bom ném tầm xa này, dây nổ liên hoàn này…

Thần Cơ xách tai Điểu Âu khiến cậu bé la oai oái:

– Thế mà nãy giờ còn ở đây nói nhảm, sao không nói từ đầu, mau đi bố trí thuốc nổ đi thôi. – Đoạn, cô bé quay sang Thái Sơn – Khi nào chị về đến nơi thì hẵng thổi gió nhé!

Thái Sơn ừ hữ không nói gì, mắt vẫn chăm chú nhìn về phía Thiên Phụng đang lượn lên sà xuống mà chưa tìm được cách xử lý đám mây xám. Con phim phượng hoàng sáng lấp lánh như ánh trăng trong những đêm thanh tịnh mấy lần định bay xuyên vào đám mây nhưng lại phải tránh ra, xem chừng trong mây có khí độc.

Thiên Phụng chán không muốn quan tâm đến đám mây và binh đoàn bất tử nữa, bay về phía Hoa nương nương và Sái Thương. Lửa phượng hoàng nóng rẫy phun thẳng vào hai vị nữ tướng. Trong đầu Thiên Phụng bấy giờ chỉ nghĩ ” Đã mất công diễu võ dương oai rồi thì phải nướng chín được cái gì đó chứ”. Bị Thiên Phụng truy sát, hai nữ tướng chạy như vịt, vừa chạy vừa la hét:

– Đại vương, cứu thiếp, cứu thiếp…

Thiên Phụng càng hăng máu, khắp toàn thân rực sáng như mặt trời ngày hè chói chang. Những tia sáng xuyên qua đám mây xám, tuy không làm tan mây nhưng khiến nó co rút lại quằn quại.

Một tiếng cười ha hả vang lên. Tiếng cười rền rền như sấm động, điệu cười cứa tận xương:

– Điểu Thiên Hoàng, đã lâu không chạm trán…

Thiên Phụng ngừng khè lửa bay lên cao nhìn về phía tiếng cười vang lên. Cô bé xoè đôi cánh rực rỡ nhìn chăm chăm vào vào một đám mây xám xịt khác có hình như đôi cánh bướm đen khổng lồ. Giữa đám mây hình cánh bướm, một đôi mắt đen sì không có lòng trắng đang nhìn cô bé với ánh nhìn vô cảm. Thiên Phụng thầm nghĩ “Rõ ràng hắn nhầm ta là cha ta, có lẽ vì thế mà có phần e dè chăng!”

Đám mây cánh bướm chạm vào đám mây đen do oán khí của binh đoàn bất tử hình thành, tạo nên chuỗi sấm sét uỳnh oàng đinh tai nhức óc. Những tia điện chiếu thẳng vào bức tường thành bằng đồng. Thiên Phụng thấy vậy lao vào đỡ tia điện. Tia điện đánh trúng vào cánh bên trái của cô bé khiến cô bé mất thăng bằng, ngã lăn xuống đất.

Máu của cô bé chảy ròng ròng. Thiên Phụng vẫn tự nhủ: “Không được! Bây giờ mà hoá nhân thân thì sẽ lộ mất!” Thiên Phụng giương cao cánh, cố bay chậm chạp lên trời.

Bức tường thành bắt đầu cử động ken két. Thiên Phụng đã bay lên cao hơn tường thành. Cô bé lao về phía đám mây hình bướm như một cuộn lửa sáng rực rỡ. Cánh quạt khổng lồ chuyển động, xoay thành một cơn lốc thốc ào ào về phía binh đoàn bất tử. Chúng vẫn đứng im bất động gườm gườm vững vàng không bị gió quật đổ. Nhưng đám mây đen oán khí bị gió xoáy xé tan. Chỉ còn đám mây hình bướm bay lên cao hơn, Thiên Phụng cũng bay theo sau, nên không bị gió làm cho chao đảo.

Máu trên cánh Thiên Phụng vẫn cứ tứa ra, cô bé chao đảo lạng qua lạng lại, không có được vẻ uy dũng như trước. Đám mây bướm đen bấy giờ mới phản công, lao về phía cô bé. Từ cánh bướm tiết ra lớp bụi chì. Bụi chì được phóng vào chỗ rỉ máu, máu ngả thành màu đen. Con bướm mây phình to ra, dùng mấy cặp chân lông lá bấu chặt lấy Thiên Phụng. Thiên Phụng giãy giụa cảm thấy những xúc tu cắm sâu vào da thịt mềm mại của mình, đè nghiến bóp nát từng mạch máu. Thiên Phụng khè lửa vào đôi mắt của con bướm. Tia lửa vụt tắt bởi hàn khí toát ra từ đôi mắt lạnh lẽo của nó.

Miệng con bướm sâu hoắm, lởm chởm gai dí sát vào cổ Thiên Phụng. Thiên Phụng thở gấp, vung đôi cánh. Máu của cô bé văng vào mắt của con bướm. Con bướm giãy nảy. Mắt của nó sùi lên một chất dịch đen cháy xèo xèo. Nó buông Thiên Phụng ra. Thiên Phụng lảo đảo nhưng vẫn cố giữ thăng bằng.

Con bướm đen hiện nguyên hình là một thanh niên tóc dài xoã ngang lưng, mặc bộ giáp đen bóng loáng bó sát người. Vẫn đôi mắt đen u tối, đáng sợ, lạnh như địa ngục. Da hắn trắng bệch, gân lên những đường xanh của mạch máu. Hắn dùng tay quệt vết máu và dịch đen ở khoé mắt mình, nhếch mép cười:

– Ngươi… không phải Điểu Thiên Hoàng!

Cùng lúc ấy, một chuỗi tiếng nổ vang lên. Bùm! Bùm! Bùm!… Tiếng nổ này là do thuốc nổ của Điểu Âu bố trí dưới chân tường thành. Khi binh đoàn bất tử tiến vào cổng thành thì thuốc nổ sẽ phát nổ theo từng đợt. Những lớp vỏ chì tan chảy trong trận lửa hừng hực dưới chân tường thành.

Lớp oán khí mờ mịt bốc lên theo khói lửa. Những gương mặt méo mó mờ ảo rít lên tiếng thét sởn gai ốc. Lớp oán khí ùa vào trong thành. Quân đội Điểu tộc ngập ngừng hoang mang không biết nên xông vào đánh hay lên bỏ chạy.

Một người lính dũng cảm tiến lên, thọc mũi giáo vào luồng oán khí. Luồng oán khí bao trọn lấy anh ta. Chỉ trong giây lát, anh chàng đã hoá thành cái xác khô. Gương mặt của anh lính hoà vào luồng oán khí, cũng la hét căm hờn.

Thấy vậy, toán lính hò nhau rút lui. Lúc này quân đội không người chỉ huy, có thể có tổ chức như vậy chỉ có thể là quân của Điểu tộc.

Bỗng nhiên, bốn bề vang lên khúc hát trầm hùng. Tuyết bắt đầu rơi. Những xác chết và vết máu lênh láng chiến trường bị tuyết phủ lên. Tuyết lất phất làm tan đi khí u uất của nhiều ngày chiến trận.

“Chén rượu này
Hòa máu anh hùng
Quất roi ngựa
Bụi mờ biên tái
Chén rượu này
Cạn tim chính nghĩa
Nguyện phơi thây giữa đại ngàn
Thân xác anh hùng hư vô
Tinh thần anh hùng tuyệt đối
Cạn chén thôi
Cạn chén thôi…”

Dã Vương nghe khúc hát, chợt khựng người. Khúc hát càng vang vọng, hắn càng nhăn nhó, như thể có cái gì trỗi dậy bên trong. Hắn gừ gừ:

– Chúc Thịnh Lai… – Đoạn, hắn lầm bầm gì đó.

Thừa cơ, Thiên Phụng văng máu vào mặt hắn. Hắn dùng tay gạt máu. Xem ra máu phải rơi trúng vào mắt hắn mới khiến hắn quằn quại! Có thể, điểm đáng sợ nhất trên cơ thể hắn lại là điểm yếu cốt tử nhất. Tuyết phủ trắng trên máy tóc dài và tấm áo choàng đen nhưng do hắn vung vẫy rất mạnh nên tuyết tóe ra xung quanh. Tuyết làm dịu đi cơn đau mà Thiên Phụng vẫn cố cắn răng chịu đựng từ lúc bị trúng tia sét của Dã Vương tới tận bây giờ.

“Thân xác anh hùng hư vô
Tinh thần anh hùng tuyệt đối”

Khúc hát trầm hùng ấy vốn là khúc hát Chúc Thịnh Lai sáng tác cho nghĩa quân rừng Bạch Tùng. Tiếng hát đồng ca đang vang lên khắp chiến trường ấy cũng chính là của nghĩa quân. Nghĩa quân do Vương Minh dẫn đầu đã bao vây tường thành. Khúc hát ấy khiến oán khí dịu lại, mờ dần khí chì. Vương Minh tách khỏi nghĩa quân tiến lại gần luồng oán khí. Ba quân toan giữ lại nhưng Vương Minh khoát tay ra hiệu rằng mình không sao.

– Các ngươi ở đây đều là tử sĩ vô danh, nhưng ai cũng từng có một thời oanh liệt – Vương Minh nói bằng một giọng ngậm ngùi. – Ở đây có cả binh lính của Dã Quốc, Điểu tộc, Long tộc, và có lẽ của cả nghĩa quân rừng Bạch Tùng nữa. Thì sao chứ, tất cả đều hàm oan mà chết trên chiến trường. Có người bỏ lại gia đình, có người bỏ lại sự nghiệp riêng, thân xác hoá đất, linh hồn đau đớn. Các ngươi muốn giữ mãi nỗi đau này sao?

Một giọng nói như thể ngàn vạn tiếng đồng thanh:

– Trong nỗi đau ta thấy mình tồn tại! Ngươi có thể cho ta cái gì?

Vương Minh nén khí trong ngực rồi bung ra:

– Không! Đây không phải là tồn tại! Các ngươi bị trói buộc bởi một thiết lập chấp niệm của Dã Vương!

Luồng oán khí lập tức bùng phát tức giận, toan bao trùm Vương Minh. Vương Minh ho sặc sụa nhưng vẫn cố đứng vững:

– Các ngươi giết ta cũng được… nhưng… hãy nhớ những ký ức hạnh phúc trong đời các ngươi… Những ước mộng đẹp đẽ… Tồn tại chính là ở giữa đau khổ và hạnh phúc. Oán hận mà làm gì… Giết ta đi, ta không có gì để oán hận, ta sẽ đánh thức các ngươi!

Sau lưng Vương Minh, nghĩa quân rừng Bạch Tùng vẫn cất cao giọng hát. Quân đội của Điểu tộc cũng hòa vào tiếng hát thành một bè mạnh mẽ và uy lực:

“Quất roi ngựa
Bụi mờ biên tái
Chén rượu này
Cạn tim chính nghĩa
Nguyện phơi thây giữa đại ngàn”

Từ đại ngàn sâu thẳm của dãy Đại Sơn hùng vĩ, tiếng sói lại hú lên tràng dài xuyên màn tuyết trắng xóa.

Hà Thủy Nguyên

Mời các bạn đọc các chương trước tại đây: https://hathuynguyen.com/tag/long-dieu-truyen/

Home 2018 / page 4

Nguội lạnh

Tôi đã chết trước khi vào cuộc sống
Lòng tro tàn phơ phất tóc vương mây
Đeo mặt nạ nổi chìm cùng vai diễn
Kịch khép màn, hồn chẳng chịu về tây

Cố học tham cợt cười cùng nhân loại
Cố si mê cho tròn cuộc ái ân
Cố sân hận mà nhập tâm tuồng ảo
Sợi duyên nào đứt nối
Tôi và người
Hợp tan

Tôi đi ngược chiều luồng gió thế gian
Những gương mặt lướt đi mờ bóng
Nhân duyên mảnh dường tơ
Níu đứt
Buông vương
Con nhện già chết khô trơ xác tục

Những rúng động mênh mông hải sa
Ta cứ đi ngược chiều cơn sóng dữ
Mặn mòi bể khổ
Bờ không bờ
Ta bước trọn vòng không đích
Cũng vịt vờ trong ảo cảnh thần tiên
Của những hòn đảo trơ trơ màu mỡ
Ấp ủ hồn chúng sinh nuôi dưỡng chúng sinh

Tôi đã đi qua những bộ lạc vô nhân
Hiến tế cho các vị thần
Bằng thịt hoá thân
Các vị thần tự ăn mình rau ráu
Máu vương lên đất, đoạ đày chân tính
Tôi thoáng mơ về cái chết
Chúng rúc rỉa thân tôi đến khi thành nắm đất
Đã mỏi rồi, ôi nhạt mệnh thần tiên
Tôi lại thấy mình nguội lạnh

Tôi bước đi trên con đường tro ám
Ngọn lửa trần thiêu đốt khúc tuồng vui
Chẳng ai quen
Hóa tro thảy rồi chăng?
Nhất niệm tái sinh
Vào cuộc tham sân si trần tục
Vở bi kịch đã nhuốm màu hài hước
Tôi đau cho hết một cơn này
Rồi nguội lạnh chiều nay
Theo mặt trời về tây

Tôi chẳng nói lời vĩnh biệt
Bởi nhân duyên đứt nối vô kỳ

Hà Thủy Nguyên

Home 2018 / page 4

Dấu vết

Lộp độp, mưa vỗ trống trên mái nhà gỗ.  Thỉnh thoảng những cơn gió lại dội lên đu đưa rừng trúc như một mảng bè trầm xa vắng. Nàng choàng tỉnh khỏi cơn xuất thần mê đắm, trong cơn xuất thần nàng đã chạm tới những vì sao xa xăm ngoài vũ trụ. Nhưng cho dù các vì sao khác nhau như thế nào thì chúng vẫn giống nhau một cách nhàm chán. Và giờ đây nàng lại thấy những thanh âm của trần gian có một sức thu hút lạ kỳ.

Nàng vốn là một phù thủy đã nguyện tách xa mình khỏi nhân thế để tu luyện những bí giáo chỉ có thể dành cho kẻ âm thầm giữa vòng đời mê ảo này. Căn nhà nàng ở nằm trong một khu rừng trúc nơi cùng trời cuối đất, giữa thâm sơn cùng cốc, chẳng ai biết tới, vốn dĩ đã được tổ tiên của nàng dựng lên để cất giữ những pho sách không thể lưu truyền chốn nhân gian. Không biết bao năm tháng đã qua đi – khi chỉ có một mình đối diện với chính mình thì thời gian cũng chỉ là thứ vô nghĩa – có thể là hàng chục năm, hàng trăm năm, nhưng nàng vẫn giữ dáng vẻ của thời xuân sắc. Xưa kia, thuở bé, nàng cũng ở cùng cha mẹ và họ hàng tại khu rừng này, nhưng vì một lý do nào đó họ đã ra đi để rồi không bao giờ nàng thấy họ quay lại nữa.

Cơn mưa miên man thả xuống không gian quanh nàng một hơi mát dịu và một lần nữa lại đẩy nàng xuất thần. Thần khí của nàng phiêu bạt trong gió, nàng muốn để mặc chúng kéo trôi đi, cho đến điểm cuối cùng của cơn mưa. La đà qua những ngọn trúc, xuyên thấu qua những kẽ núi thâm sâu, lướt qua những dòng sông cuộn sóng, nàng men theo đó và dừng lại tại một ngôi làng.

Tiếng người nói xôn xao, dù rất nhỏ so với tiếng mưa rơi, vậy mà lại khiến nàng xáo động. Nàng chợt nhớ ra là đã rất lâu rồi nàng không cất tiếng nói. Các vì sao và vũ trụ đâu cần lắng nghe thứ âm thanh nhỏ nhoi của nàng đâu. Cơn chấn động khiến nàng khiếp hãi, nàng vội vã vụt quay trở lại thân xác của mình. Bên tai nàng không còn tiếng mưa rơi nữa, chỉ còn lại những tiếng người hỗn loạn mỗi lúc một vang hơn.

Bật dậy, nàng ở tung cửa, nhào ra ngoài mưa. Đất sũng nước mềm như nhung nhưng lạnh thấu gan bàn chân. Tóc nàng bết lại đổ xuống tà áo trắng nay đã trở nên trong suốt. Chiếc áo dính chặt lấy người nàng khiến nàng khó chịu, trong cơn hoang mang, nàng đã trút bỏ nó và vứt vơ vẩn dưới một gốc cây nào đó. Hơi đất vẫn tiếp tục lan trong từng mạch máu, những giọt mưa trút như thác lũ từ trên trời không đủ để tẩy rửa. Thậm chí, những cành trúc la đà cũng không ngừng mơn man da thịt của nàng. Trong khoảnh khắc nàng bỗng thấy mình chỉ là một kẻ trần thế hơn tất cả loài người kia. “A…. A…A…” Nàng thét lên một tràng dài rồi quỵ xuống, nằm gục xuống đất, thổn thức mấy chữ:

–         Ta… ta…

“Ta phải rời khỏi đây. Vì sao ư? Vì đơn giản là ta thấy cần. Nhưng làm thế nào để có thể đi vào trốn nhân gian kia và không để lại bất cứ dấu vết gì? Ta đơn thuần chỉ muốn làm một kẻ lặng lẽ và quan sát… Thây kệ, ta sẽ đi, sẽ cố hết sức để giữ mục tiêu tối thượng của mình”

 

Image

Vậy là nàng rời khỏi căn nhà gỗ, rời khỏi rừng trúc để tìm đến với con người. Thật buồn cười, nàng hiểu hết các vì sao ngoài vũ trụ xa xăm, nhưng lại chẳng hiểu gì về con người cả. Nàng cứ nghĩ rằng chỉ cần biết về các vì sao là đủ, bởi con người chịu sự chi phối của chúng, nhưng hình như nàng đã lầm, nàng không hiểu tại sao con người có thể gây ra cho nàng một cơn cuộn trào mạnh mẽ đến vậy. Phải chăng có điều gì huyền bí?

Ngôi làng hôm nọ đã hiện ra trước mắt nàng. Đó là một ngôi làng nghèo đói xác xơ vì dịch bệnh. Trái tim nàng thắt lại khi thấy những con người lầm than đau khổ vươn tay ra xin ăn cầu cứu. Xin ăn thêm một bữa để làm gì khi ngày mai vẫn chắc chắn là mình sẽ chết. Họ níu kéo điều gì trên Trái Đất này nữa không biết. “Con người thật  là ngu xuẩn”, ý nghĩ ấy vừa vang lên trong đầu để xóa bỏ đi cơn đau của trái tim thì đập vào tâm trí của nàng là hình ảnh một người mẹ bệnh nặng nhưng vẫn níu váy nàng xin miếng bánh cho đứa con nhỏ. Hình ảnh ấy đẩy nàng vào quá khứ, cái cảm giác trong vòng tay của mẹ xa lắc xa lơ bỗng tràn về. Nàng chỉ khẽ lắc đầu, thở dài xa vắng.

Nàng ngồi xuống giữa chợ, nhắm mắt lại, ngửa cao đầu, vươn thẳng đôi cánh tay trắng nõn lên trời. Luồng năng lượng mạnh mẽ nhưng thanh khiết của vũ trụ tối cao tuôn chảy qua cơ thể nàng, cả người nàng phát ra một quầng hào quang trắng sáng và nàng chuyển nó xuống hai bàn tay. Nàng đi đến tất cả những người bệnh và chạm vào họ, ánh sáng ngấm qua da thịt và đẩy lùi màu đen sạm đi đâu không rõ.

Cứ thế, cứ thế, hết làng này đến làng khác, nơi thì nàng dậy cho họ cách trồng trọt cho hợp với mặt trăng và các vì sao, nơi thì nàng dậy họ nghề làm thuốc, nơi nàng giúp những kẻ khốn cùng chống lại đạo luật hà khắc, bất công. Nàng cố gắng để không có một chút gắn kết tình thân nào với những người ở đó, nàng những tưởng rằng nàng đang không để lại chút dấu vết gì.

Ai ngờ dấu vết ấy còn lan xa hơn cả bước đi của nàng. Dấu vết đã đến tai của một ông vua trẻ tuổi. Sự xuất hiện của nàng tạo ra một sự hỗn loạn trong triều đình, nàng khiến những người dân chống lại đạo luật mà ông ban bố, và dù biết rằng nàng không có ý xấu, nhưng sự sĩ diện của ngai vàng buộc ông phải bắt nàng.

Nàng được đưa đến trình diện đức vua. Ôi chao! Ông phải mất  một lúc lâu ngây ngất trở vẻ sâu thẳm của nàng, sâu thẳm đến nỗi làn nước trong trẻo nhất cũng không  khiến ông nhìn xuyên thấu được. Sự sâu thẳm ấy dường như thôi miên ông, khiến ông phải đuổi hết tả hữu để được ở lại với riêng mình nàng. Uy quyền của một vị vua đã bay đâu mất, ông tiến đến gần nàng, đôi mắt vẫn không rời đôi mắt, cởi trói cho nàng, dắt tay nàng ngồi xuống ngai vàng cạnh mình.

Thời gian lại một lần nữa trở nên vô nghĩa. Nàng cả thấy một điều gì đó đang cựa quậy tự nơi sâu nhất và tuôn trào lên trái tim nàng. Nàng quên mất cả vũ trụ, quên mất những vì sao, quên mất những con người sống trong mông muội. Điều quan trọng nhất với nàng lúc này là được chạm lên nụ cười quyến rũ của đức vua. Và đôi tay đã làm theo điều bí ẩn đang cựa quậy đó, những ngón tay của nàng lần lượt rờ nhẹ trên khuôn mặt của đức vua, tựa như những lá trúc mơn man cơ thể của nàng trong đêm mưa gió.

Kích động! Nhà vua ào đến như luồng sóng mặt trời dữ dội. Nó đẩy lùi mọi cảm giác khác và nàng thực sự bị thuần phục, như những vì sao phải thần phục vầng thái dương. Những tiếng nói lao xao trong đầu nàng biến mất, chỉ còn tiếng thở của nhà vua hổn hển, ấm nóng hòa cùng tiếng trái tim nàng đập mạnh liên hồi. Chưa bao giờ nàng lại thích thú với sự vô nghĩa của giọng nói đến vậy, và sự im lặng này sẽ kéo dài trong bao lâu? Gối đầu lên đùi của đức vua, để đôi bàn tay ấy vờn nhẹ những lọn tóc trên má, cả vũ trụ này bỗng dưng không tồn tại.

–         Tại sao nàng lại chống tại ta? – Đức vua đã lên tiếng.

–         Ta không chống lại ngài – Nàng áp bàn tay đức vua vào trái tim mình – Ta chỉ không chịu được khi nhìn thấy những điều đau khổ. Ngài không thấy họ đáng thương sao?

–         Nhưng nếu ta không hà khắc thì họ sẽ chém giết lẫn nhau…

Nàng níu cổ đức vua, kéo người cúi đầu hôn một nụ hôn thoảng qua rồi nhìn sâu vào đôi mắt của ông.

–         Tại sao ngài lại hà khắc với chính ngài như vậy?

Đức vua sững sờ lảng tránh, thẳng lưng nhìn lên trời. Nàng vẫn dịu dàng vừa nói, vừa vuốt ve lòng bàn tay ngài

–         Ngài không phải đang hà khắc với người dân của ngài, ngài đang hà khắc với chính ngài. Đạo luật hà khắc ấy làm cho họ sợ thì ít, mà làm cho ngài sợ thì nhiều. Ngài sợ không thể kiểm soát được mình và mất đi uy thế của một vị chúa tể.

Đức vua nhắm mắt lại, thở hắt ra rồi hít vào thật sâu. Ông nâng cằm nàng và nói:

–         Nàng sẽ trở thành hoàng hậu của ta chứ?

Nàng bật cười khúc khích:

–         Ta đã trở thành hoàng hậu của ngài từ lâu rồi, chỉ ngài là không biết đó thôi. Ngài không cần phải bãi bỏ những điều luật hà khắc ấy đâu, ngài chỉ cần  mang đến cho họ một niềm tin vào tình yêu của Thượng Đế, mang đến cho họ đủ cơm ăn, áo mặc. Thế rồi họ sẽ giống ta, bị ngài thần phục hoàn toàn.

Đức vua cười lớn thích thú vì lời nói của nàng. Một hôn lễ không ồn ào, nàng không thích đông người, nhưng lãng mạn giữa một rừng hoa với con suối nhỏ, đã được tổ chức. Từ ấy đức vua và nàng cùng nhau cai trị đất nước trong thanh bình, dân chúng ca vui rộn rã.

Nhưng, từ khi nàng trở thành Hoàng hậu, những thầy tu khắc kỷ bị truất hết uy quyền. Vua vẫn cho họ bổng cao lộc hậu, song họ không thể chấp nhận được việc vị vua trẻ tuổi đã nằm ngoài sự kiểm soát của họ và tự ý quyết định quốc gia đại sự. Họ rêu rao khắp nơi bêu riếu Hoàng hậu, rằng nàng là một phù thủy  tà ma đã bỏ bùa đức vua. Người dân không tin các thày tu, họ chịu ơn của nàng. Các thày tu bực bội rời bỏ đất nước này để đến các đế quốc hùng mạnh hơn. Tại đây, họ bịa đặt  với các vị hoàng đế về phép màu đáng sợ của nàng, về tham vọng dùng pháp thuật ấy để thôn tính thiên hạ của đức vua. Các đế quốc liên minh với nhau, đem quân đến biên giới của đất nước gây áp chế.

–         Cuộc chiến này sẽ giết chết rất nhiều người… – Nàng đứng ở cửa sổ và nhìn xuống phía những người dân.

–         Nàng yên tâm, chúng ta sẽ chiến thắng, chúng ta có công lý ở trong tay…

Nàng quay lại nhìn đức vua mới một nụ cười buồn bã:

–         Chàng đang an ủi thiếp đấy ư? Nếu công lý có thể dành chiến thắng thì loài người đã chẳng lầm than đau khổ. Không! Công lý không phải thứ để thắng, nó là thứ để dành riêng cho bản thân mình…

–         Nhưng họ muốn hỏa thiêu nàng … – Đức vua xúc động, không ngăn được dòng nước mắt.

–         Thì có sao đâu, thiếp không thể dùng phép thuật để giúp chàng chiến thắng được, sẽ có quá nhiều người phải chết.

Đức vua ôm chầm lấy nàng:

–         Ta không cần chiến thắng, ta chỉ cần mãi mãi ở bên nàng. Hay ta và nàng cùng nhau bỏ trốn đến một nơi thật xa…

Nàng đặt tay lên môi đức vua để giữ chặt lời ông:

–         Điều này do thiếp gây ra. Ngay từ khi rời khỏi rừng trúc, thiếp đã tự nhủ với mình rằng sẽ đi qua cuộc sống loài người mà không để lại chút dấu vết gì, nhưng hình như ngài và những con người kia đã để lại quá nhiều dấu vết bên trong thiếp. Nếu chúng ta bỏ đi, họ sẽ không ngừng săn lùng chúng ta, họ sẽ tàn sát con dân của ngài. Ngài nỡ lòng ư?

Đức vua im lặng xiết chặt nàng hơn nữa. Nàng vuốt nhẹ sống lưng của đức vua thủ thỉ:

–         Cứ để họ hỏa thiêu thiếp, nhưng chúng ta vẫn có thể ở bên nhau. Nếu ngài thực sự muốn mãi mãi bên thiếp, nàng hãy rời bỏ ngai vàng sau khi sắp xếp xong mọi chuyện, thiếp sẽ để lại cho chàng tấm bản đồ dẫn đến khu rừng trúc. Ở đó, chàng hãy học cách để có thể lên được những vì sao. Thân thể của thiếp có thể bị thiêu rụi, nhưng linh hồn thiếp tồn tại trên vũ trụ bao la kia. Nơi ấy, chúng ta sẽ vĩnh viễn ở bên nhau…

Ngọn lửa đỏ rực thiêu đốt thân thể của nàng trước mặt đức vua. Nàng chỉ mỉm cười nhìn ngài trong khi ngài vẫn phải nén nỗi đau để đeo chiếc mặt nạ của một ông vua hùng cường. Sự hả hê cũng như lòng thương tiếc không vượt qua nổi được ngọn lửa. Tất cả những điều ấy giờ đây cũng trở nên vô nghĩa với nàng. Thần khí của nàng đã rời khỏi cơ thể, tan biến vào một cơn gió thổi qua làm khô ngấn lệ trong khóe mắt của đức vua rồi vươn cao tới những vì sao.

Một cơn mưa rào ập tới, đức vua vẫn đứng đó trong cơn mưa nhìn nước dập tắt ngọn lửa đã cướp đi người yêu dấu của ngài. Ngài thần người nhìn đống tro tàn còn lại đang bị nước cuốn trôi và tất cả đều tan loãng vào lòng đất.

Hà Thủy Nguyên

Home 2018 / page 4

“MÊ HỒN CA” CỦA ĐINH HÙNG: CÕI CHIÊM BAO CỦA THỨC TỈNH TINH THẦN

Hà Thủy Nguyên

Lần đầu tiên đọc thơ Đinh Hùng, khi ấy tôi vẫn còn ngồi trên ghế trường trung học, đó là bài thơ “Khi mới nhớn”. Bài thơ nằm trong một tuyển tập ở thư viện Hà Nội. Tôi đọc bài thơ với sự khoái chí khi tưởng tượng đến cậu học trò trốn học bởi nhận thức được những sự ngớ ngẩn của trường lớp và muốn giữ mãi sự mơ mộng nguyên thủy của bản thân. Thời ấy, tôi tâm đắc mấy câu này:

“Ta ném bút dẫm lên sầu một buổi

Xa vở bài, mở rộng sách ham mê

Đã từng phen trèo cổng, bỏ trường về

Xếp đạo đức dưới bàn chân ngạo mạn”

Tôi thích mê Đinh Hùng đi được và quyết định là sẽ tìm bằng được thơ của ông. Nhưng thời ấy, các cô giáo dậy văn của tôi không ai biết Đinh Hùng, thư viện không có sách của ông, và ngay cả cuốn sách điểm mặt gần như toàn bộ các nhà thơ xuất sắc thời 30 – 45 là “Thi nhân Việt Nam” cũng không nhắc đến ông. Chỉ đến khi vào đại học, tôi mới được đọc thêm một bài khác của Đinh Hùng là “Bài ca man rợ”, và lúc ấy, tôi mới nhận diện được phần nào con người thơ của Đinh Hùng, rồi được nghe nói đến tập thơ “Mê hồn ca” của ông như một huyền thoại. Cũng xin nói thêm, một sinh viên ngành nhân văn ở Việt Nam trước 2010 mà muốn tìm tư liệu để đọc không phải việc dễ nếu không có mối quan hệ đủ tốt với các thày và các nhà nghiên cứu. Sẽ không có chuyện lên Thi Viện “search” tên Đinh Hùng là có gần như đầy đủ các tác phẩm của ông. Tôi đã đi tìm tập thơ ấy trong nhiều năm, và chỉ đến khi vào Sài Gòn làm việc (năm 2008), tôi mới thực sự được đọc toàn bộ tập thơ “Mê hồn ca” nhờ những hàng sách cũ ở thành phố này. Nhiều năm sau khi đọc “Mê hồn ca”, tôi không đọc được thơ của người khác. Tôi đã bị ám ảnh bởi thực tại kỳ vĩ trong thơ Đinh Hùng, một thế giới thơ hiếm hoi trong nền văn chương Việt Nam vốn chỉ thích những thứ be bé, xinh xinh…

Đinh Hùng sinh năm 1920, thuộc thế hệ nhà thơ trẻ bắt đầu trưởng thành vào cuối Phong trào Thơ Mới. Ông sáng tác nhiều bài thơ thời ấy, dù còn non tay. Sau này, những bài thơ thời non trẻ ấy được đưa vào tập “Đường vào tình sử” (1961). Kể ra thì, ngay cả các bài thơ non tay của Đinh Hùng cũng ăn đứt không ít các nhà thơ được tuyển vào “Thi nhân Việt Nam” (1942). Sau này, các học giả đều phê phán Hoài Thanh về việc không đưa Đinh Hùng vào “Thi nhân Việt Nam” với lời buộc tội rằng Hoài Thanh không chịu nổi các bài thơ siêu thực, tượng trưng mà chỉ thích các bài êm tai. Đinh Hùng không được nhắc đến trong “Thi nhân Việt Nam”, tôi cho rằng đó là điều hợp lý. Bởi thơ ông vượt ra khỏi phạm vi “Việt Nam”, và nếu có đưa ông vào tập sách ấy, quả thực cũng không biết xếp ông ở ghế nào trong bảng xếp hạng thời thượng đó. Hơn nữa, việc hiểu thơ Đinh Hùng không phải việc dễ, nó đòi hỏi người đọc phải tách biệt khỏi thế giới thực để bước vào một cõi giới khác. “Muốn đi vào thi giới của Mê Hồn ca và Đường Vào Tình Sử, trước hết, phải tách rời nó ra khỏi thực tại. Tách rời hẳn ra. Vì thi giới đó, không phải là một phản ánh thơ mộng của thực tại như ta lầm tưởng. Thi giới đó là một hư cấu, hoàn toàn độc lập với thực tại, nếu có tương quan thì tương quan đó chỉ là tác giả và người đọc, những nhân sự khởi đi từ trần lụy để tìm đến một vũ trụ khác.” (Đặng Tiến) (1)

Đinh Hùng là bạn thân của Vũ Hoàng Chương và Thạch Lam, nhưng người “tri ngộ” ông lại chính là Thế Lữ – vị chủ soái của phong trào Thơ Mới. Thế Lữ khi viết “Trại Bồ Tùng Linh” đã lấy bài thơ “Kỳ nữ” của Đinh Hùng để sử dụng trong truyện. Bài thơ hẳn đã là một sự chấn động với vị chủ soái, nếu không ông đã tự sáng tác một bài thơ thay vì mượn thơ của một nhà thơ trẻ tuổi chưa có nhiều danh tiếng. Sau khi đọc bài thơ này, Thế Lữ đã không làm thơ nữa. “Kỳ nữ” là những mảng siêu thực về hình ảnh của người con gái phi thường. Người con gái này là một nữ thần để Đinh Hùng phải quỳ gối:

“Khi sùng bái, ta quỳ nâng nếp áo

Nhưng cúi đầu trước vẻ ngọc trang nghiêm

Ta khẩn cầu từng sớm lại từng đêm

Chưa tội lỗi đã thấy tràn hối hận”

Nếu nhà phê bình nào cố gắng đi tìm “Kỳ nữ” này ngoài đời thật thì đó là một nhiệm vụ không tưởng. Người “kỳ nữ” của Đinh Hùng không có một chút nào là “thật”. “Thật” ở đây có nghĩa là hiện hữu. Đi tìm một dạng tồn tại không hiện hữu thì không thể sử dụng con mắt của các nhà nghiên cứu hay phê bình được. Nếu chỉ bằng con mắt soi xét những thứ hiện hữu, ta chỉ thấy những hấp dẫn câu chữ mà chúng ta thường quen gọi là “thủ pháp” và “tư tưởng”. Người ta đọc thơ không phải đi tìm những thứ ấy. Người ta đọc thơ bởi vì thơ đưa tinh thần của ta vào không gian tinh thần của thi sĩ và thông qua đó gợi mở cho ta điều mới mẻ. Trong trường hợp bài “Kỳ nữ”, Đinh Hùng đã đưa ta vào một không gian thần thoại mà ở đó tự nhiên và người con gái đồng nhất với nhau. Trong thần thoại, các nữ thần cổ xưa thường được mô tả với vẻ kì vĩ của trăng sao, của núi rừng. Nữ thần không mang hình hài con người mà mang hình hài của tự nhiên với “biển sắc rừng hương”, “ngàn hoa sớm”, “vầng đông”, “sao mọc”, “băng tuyết”… Trong khoảnh khắc đầu tiên mà thần nữ xuất hiện, không phải là “làn thu thủy nét xuân sơn” (2) mà là “trời ta mơ ước”. “Kỳ nữ” với Đinh Hùng cũng giống như nàng Galatae với chàng Pygmalion, là đại diện cho lý tưởng, cho cõi mơ, cho sự hoàn hảo mà người nghệ sĩ luôn tưởng đến. Nhưng “Kỳ nữ” chỉ là một mã để ta nhận diện thế giới Đinh Hùng mong muốn chạm đến. Trong thế giới ấy, tự nhiên đóng vai trò tuyệt bích dù cho có “dị kỳ”, có “yêu ma”. “Kỳ nữ” nằm trong phần II của “Mê hồn ca”, có tên là “Thần tượng” cùng với hai bài thơ khác là “Ác mộng” và “Hương trinh bạch”. Người con gái trong hai bài thơ này cũng giống như “Kỳ nữ”, đều là đại diện cho lý tưởng của nhà thơ, cho sự ngưỡng vọng và khao khát đối với tự nhiên, với cảm giác hung bạo của bản năng.

Trong bài viết “Thơ Đinh Hùng: Hai thế giới” của nhà phê bình văn học Nhị Linh (Cao Việt Dũng) (3), yếu tố “man rợ” của tự nhiên trong thơ Đinh Hùng bị gạt bỏ và người đọc được thuyết phục rằng mấu chốt của thơ Đinh Hùng chính là yếu tố “mị”. Nhị Linh đã liệt kê một loạt các bằng chứng để thuyết phục người đọc rằng thơ Đinh Hùng có màu sắc ma mị, trong đó có bằng chứng về lời nhận định của những người bạn thân với Đinh Hùng. Đây là một cách nhìn hết sức sai lầm. Sai lầm này đến từ việc nhà phê bình không hiểu về tự nhiên, cũng không hiểu về ma mị. Tự nhiên trong tâm thức thần thoại luôn được gắn với các linh hồn lớn mà chúng ta vẫn gọi là “thần”. Con người thời cổ không thể lý giải được tự nhiên nên họ kính sợ, gán cho các hiện tượng ấy những thần tính. Các thần tính này dựa trên một sự chắt lọc về nhân cách hoàn hảo mà một bộ tộc tôn sùng. Như vậy, một vị thần tự nhiên được kết hợp bởi sức mạnh bí hiểm của tự nhiên và nhân cách hoàn hảo đại diện cho bộ tộc, để rồi toàn bộ tộc chịu sự chi phối của vị thần. Con người trong nhiều nghìn năm lịch sử, vừa kính sợ lại vừa ghét bỏ và đồng thời cũng ước ao đạt tới thế giới của các vị thần. Nhưng nực cười ở chỗ, con người có thể kính sợ hoặc ghét bỏ ngoại trừ việc đạt đến. Và thế là họ chuyển sang kế hoạch hạ bệ các vị thần hết lần này đến lần khác, bằng nhiều cách khác nhau. Các vị thần lùi vào bóng đêm, trở thành những bóng ma lẩn khuất và vẫn gắn liền với tự nhiên nhưng ở quy mô nhỏ hơn. Trong văn hóa dân gian Á Đông, hồ ly tinh là một hình mẫu như vậy. Hồ ly tinh vốn là một vị thần cổ và dần dần bị biến thành yêu ma, quỷ quái trong các truyện truyền kỳ dưới con mắt của Nho giáo – một hệ tư tưởng bài trừ các vị thần. Người ta thích đọc các câu truyện Liêu Trai với các mối tình giữa người thường với hồ ly, hồn ma, tinh hoa, tinh bướm…v…v… bởi người ta bị kích thích do sự say đắm hoan lạc khi cảm giác sự chạm đến tự nhiên bí ẩn, kể cả trong tưởng tượng.  Đời sống của cộng đồng người với thứ “hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” (4) không đáp ứng được lòng ham muốn không đáy của con người, bởi thứ con người thực sự đói khát là được trở về với xuất xứ của mình, với bản tính tự nhiên. Con người tôn sùng các vị thần tự nhiên hay mơ mộng được làm tình với hồ ly tinh thì cũng đều là một sự đói khát tự nhiên – phẩm chất đã mất đi trong dòng lịch sử. Đó là nỗi ám ảnh của Đinh Hùng, là cảm hứng chi phối chủ đạo trong “Mê hồn ca”. Gán thơ Đinh Hùng với yếu tố mị, Nhị Linh đã hạ thấp tầm cỡ của Đinh Hùng xuống một thứ tầm thường như những truyện ma thịnh hành từ quãng những năm 30s, 40s đến 60s của thế kỷ 20. Không nhà thơ nào sống một đời đắm đuối với thơ ca lại đi viết những bài thơ để biểu hiện sự ma mị chẳng khác nào “Liêu Trai chí dị”. Có lẽ, Nhị Linh đã quá thích thú với các tư liệu ngoài lề mà mình tìm được mà quên mất rằng điều quan trọng nhất để hiểu con người thơ của một nhà thơ là qua văn bản chứ không phải qua các mẩu chuyện đời. Những mẩu chuyện đời chỉ là một sự bổ trợ để lý giải các mã ngôn từ trong văn bản mang tính chất đời sống cá nhân của tác giả.

Cũng trong bài viết của mình, Nhị Linh phản đối việc sử dụng “Bài ca man rợ” như một chìa khóa quan trọng để giải mã tập thơ kỳ dị “Mê hồn ca”. “Bài ca man rợ” quả thực không phải là chìa khóa quan trọng, nhưng “Bài ca man rợ” đóng vai trò như một tuyên ngôn của Đinh Hùng. Bài thơ nằm trong phần “Nguyên thủy”, mở đầu tập “Mê hồn ca”. Sự sắp xếp này của Đinh Hùng chẳng phải rất rõ ràng sao? “Nguyên thủy” là một thời kỳ mà con người sống trong tâm thức thần thoại, khi vẫn còn rất gần với tự nhiên. Phần “Nguyên thủy” có 5 bài là “Bài ca man rợ”, “Những hướng sao rơi”, “Người gái thiên nhiên”, “Hoa sử”, “Trời ảo diệu”. Cả 5 bài thơ này dù được viết với các phong cách khác nhau nhưng tràn ngập các biểu tượng liên quan đến tự nhiên:

“Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ

Và chân bước nghe chuyển rung đồi suối

Lá cỏ sắc vương đầy trên tóc rối

Ta khoác vai manh áo đẫm hương rừng

Rồi ta đi, khí núi bốc trên lưng

Mắt hung ác và hình dung cổ quái”

(“Bài ca man rợ”)

Khi miếu đường kia phá bỏ rồi

ta đi tìm những hướng sao rơi

lạc loài theo dấu chân cầm thú

từng vệt dương sa mọc khắc người

(“Những hướng sao rơi”)

chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt

làm đôi người cô độc thuở sơ khai:

nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài

ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc

nàng là Gái-Muôn-Đời không đổi khác:

bộ ngực tròn nuôi cuộc sống đương xuân

ta đến đây làm chủ hội phong trần

lấy hoa lá kết nên Tình Thái Cổ

rừng buổi đó vang tiếng cười man rợ

quả tơ duyên đỏ thắm sắc trên cành

chúng ta đi, lặng ngắm núi đồi xanh

bước trên cỏ để ngàn sau in dấu

(“Người gái thiên nhiên”)

xưa mạch đất dấu nghìn xuân vũ trụ

ta lãng du, chợt gặp cỏ hoa tình

mừng phong cảnh bốn mùa về hội ngộ

em gọi tên hồn non nước sơ sinh

(“Hoa sử”)

“Hỡi non thẳm! trước thời gian xao động

Đá bâng khuâng, màu thạch nhũ phai mờ

Mấy xuân thu ngươi đứng nhìn sao rụng?

Ta tìm trên tuyết dấu Người Xưa”

(“Trời ảo diệu”)

Người hoang dã, mong muốn trở về với cầm thú, sự xao động trước tự nhiên, nỗi nhớ “người xưa” hay người cùng bộ lạc từ thuở xa xôi… tất cả đều là một sự tiếc nhớ bản chất tự nhiên. Những điều ấy được phát biểu rõ nét trong “Bài ca man rợ”. “Bài ca man rợ” nói về một người “thiên nhiên” về với đô thị. Người thiên nhiên này mang dáng vẻ của rừng núi hoang sơ khiến “cả cõi đời kinh hãi”. Người rừng đứng trước đô thành với ánh mắt ngơ ngác:

“Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe

Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả

Và ta thấy hiện nguyên lòng sơn dã:

Cảnh sắc này bỗng nhuộm máu tà dương

Ta xót thương, ta căm giận, hung cuồng

Ta gầm thét, rung mấy trời thế sự”

Đó là sự “xót thương”, “căm giận”, “hung cuồng” khi chứng kiến đời sống đô thị giả dối, yếu đuối và nhàm chán với những “xiêm áo”, với “trán phẳng”. Trong cơn giận dữ ấy, người rừng – thi sĩ đã hét lên vừa như muốn kêu gọi đồng loại, vừa như muốn chối bỏ đồng loại:

“Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản

Mất tinh thần từ những thuở xa xôi!

Ta về đây lạ hết các ngươi rồi

Lạ tình cảm, lạ đời chung, cách sống”

Và:

“Lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà”

Sự tuyệt vọng đã khiến người rừng – thi sĩ ra tay tàn phá toàn bộ đô thành, để rồi quay trở lại với núi rừng dưới ánh hoàng hôn đỏ máu. Sự tàn phá này không phải sự phá hoại, đây là một sự tàn phá bằng tinh thần để chống lại các quy ước giả dối của con người. Đây là không khí thơ ta thấy được ở các nhà thơ thời kỳ Lãng mạn như Tennyson, Thoreau hay Wiliam Wordsworth. Những nhà thơ lãng mạn này chứng kiến cuộc Cách mạng Công nghiệp diễn ra ở Châu Âu với sự tàn phá cảnh quan và bản tính con người, cũng đã không ít lần giận dữ và họ chọn quay về với tự nhiên theo những cách rất khác nhau. Mặc dù các nhà phê bình thường so sánh thơ Đinh Hùng với thơ tượng trưng Pháp nhưng tôi lại thấy Đinh Hùng gần với các nhà thơ lãng mạn Anh – Mỹ hơn. Các nhà thơ lãng mạn Anh – Mỹ không đắm đuối theo ái tình mà có thiên hướng gần gũi với tự nhiên, với những điều huyền bí, bởi thế trong thơ lãng mạn Anh – Mỹ có rất nhiều yếu tố tượng trưng và siêu thực. Tôi không rõ Đinh Hùng có chịu ảnh hưởng của các tác giả ấy hay không, sự so sánh này đơn thuần là chỉ ra sự tương đồng. Bởi thế, giữa một nền thi ca mang màu sắc của lãng mạn Pháp, Đinh Hùng là một sự lạc điệu với không khí lãng mạn của Anh. Hoài Thanh không cảm được, nhiều người sau này không cảm được ông âu cũng là dễ hiểu. Cho đến nay, văn chương Anh – Mỹ vẫn là một thế giới xa vời với đại đa số người đọc Việt Nam, hay nói một cách khác, thơ Việt Nam vẫn chưa thoát được cái bóng của thơ Pháp, và bất cứ ai có một giọng điệu khác với loại thơ mẫu quốc ấy thì khó có thể được nhiều người yêu thích.

Bóng ma chiếm một phần trong tập thơ với hai phần “Chiêu niệm” và “Mê hồn” cùng với bài trường thi “Thần tụng”. Trong bài viết “Đinh Hùng, người kiến trúc chiêm bao”, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy cho rằng biểu tượng mạnh mẽ nhất của Đinh Hùng là cái chết với “mặt trời máu”, với “nấm mồ”, “tử thần”, “hồn ma”… (5) Quả nhiên, trong hai phần “Chiêu niệm”, “Mê hồn” và cả bài trường thi “Thần tụng” cũng tràn ngập không khí của cõi chết. Nhưng cái chết trong thơ Đinh Hùng không phải sự tàn lụi và đau thương. Cái chết trong thơ Đinh Hùng rạo rực xuân tình, đầy sức sống:

“Cười lên em!

Khóc lên em!

Đâu trăng tình sử

Nép áo trần duyên?

Gót sen tố nữ

Xôn xao đêm huyền

Ta đi, lạc xứ thần tiên

Hồn trùng dương hiện bóng thuyền U Minh

 

Ta gởi bài thơ anh linh

Hỏi người trong mộ có rùng mình?

Nắm xương khô lạnh còn ân ái?

Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?”

(“Gửi người dưới mộ”)

Các nhà phê bình đều cho rằng cái chết của Liên, người yêu Đinh Hùng đã gây ra nỗi ám ảnh này với ông. Nhưng cái chết của người yêu chỉ là cái cớ bên ngoài, lựa chọn thói quen “đem phòng làm cổ mộ” hay “đọc thơ gọi hồn” lại đến từ sâu kín tinh thần của Đinh Hùng. Đâu phải người nào chứng kiến cái chết của người yêu cũng sẽ có những ám ảnh như ông. Thế nên, lấy cái chết của một cô gái hiện hữu để lý giải cho nỗi khao khát “kỳ nữ” hay “người gái thiên nhiên” của Đinh Hùng là sự khiên cưỡng, thậm chí để lý giải cho bóng ma trong thơ ông cũng là cái nhìn trần tục.

Chúng ta hãy quay trở lại với nỗi khao khát tự nhiên của ông. Con người khao khát tự nhiên bởi trong tự nhiên, phần tinh thần của con người được hiển diện. Đô thị, một thứ cộng đồng người tách xa tự nhiên, khiến phần tinh thần này bị suy thoái. Thoreau đã viết thế này trong những ngày một mình sống trong rừng: “Tôi đã tìm thấy trong bản thân tôi, và vẫn còn tìm, cái thiên hướng về một đời sống cao cả hơn, hay như cái tên của nó, đời sống tâm linh, như phần lớn người ta, và mặt khác, hướng về cái đời sống nguyên thủy và dã man, và tôi tôn kính cả hai. Tôi yêu cái hoang dã nguyên sơ không kém cái thiện”. (6) Trong bài thơ “Khi mới nhớn”, Đinh Hùng đã cho ta biết về một cậu bé từ bỏ sách vở để trò chuyện với cỏ cây. Đinh Hùng cũng giống như Thoreau, đã sớm tìm về với tự nhiên. “Trò chuyện” chỉ là một cách nói khác của sự giao hòa về mặt tinh thần. Khi lớn lên, ông trò chuyện với “bóng ma”. Người thường không nhìn thấy thậm chí không cảm thấy sự hiện diện của “bóng ma”. Nhưng một người có thể nói chuyện với cây cỏ trong suốt những giờ trốn học đương nhiên có thể thực hiện một cuộc ái ân với “bóng ma”, có thể gửi tới địa ngục những “bài thơ anh linh” để gọi hồn ma quay lại. Những bài thơ trong phần “Chiêu niệm” khiến cho ta hoang mang không rõ Đinh Hùng đã đưa bóng ma từ cõi ảo đến với cõi thực hay từ cõi thực xông vào cõi ảo để được gặp mặt bóng ma. Ranh giới rất khó để phân định và cũng không thể vội vã kết luận ngay rằng Đinh Hùng viết về bóng ma ở trạng thái nửa thực nửa ảo, bởi vì đôi lúc Đinh Hùng như thể đã từ bỏ cõi thực để đi vào cõi ảo:

“từ đây châu thổ không người

ta muốn xa chơi

những đường viễn xứ

ta khóc, ta cười

cho nguyệt cầu rơi

ta gọi hồn trời

trong hang cầm thú

than ôi, than ôi!

lòng ta man rợ

không còn xót thương

chết đi ta phá Thiên đường

kinh động trái tim Thần nữ”

(“Màu sương linh giác”)

“nghìn năm chưa thoát cơn mê hoảng

ta thác sinh vào ngọn hải đăng

hỏi bao hòn đảo vừa ly tán

trần tục là đâu? hỡi đất bằng!”

(“Thoát duyên trần cấu”)

Vậy là thói quen tinh thần khi đắm chìm với tự nhiên đã đưa Đinh Hùng đến với ám ảnh về cái chết, về bóng ma. Trong đời sống tôn giáo tâm linh, trải nghiệm cận tử là quan trọng nhất của các bậc thầy và đời sống sau khi chết chính là đời sống thực của linh hồn. Trải nghiệm cận tử đưa linh hồn con người thoát khỏi thể xác và khám phá thế giới cõi âm. Điều này được ghi lại trong các thư tịch của Tây Tạng, Ai Cập, Trung Quốc và một vài trường hợp cận tử được ghi lại bởi báo chí phương Tây. Trong trạng thái cận tử, con người tiếp xúc với thế giới âm, gặp gỡ những linh hồn. Thỉnh thoảng, trong trạng thái mơ màng, con người bị rơi vào trải nghiệm cận tử và thấy những linh hồn lạ hoặc những linh hồn người quen trong quá khứ. Krishnamurti, một bậc thầy tâm linh đương đại nổi tiếng được sự kính ngưỡng của cả giới tôn giáo và giới khoa học thế kỷ 20, cũng đã thường xuyên có trải nghiệm này. Trong những biến đổi mãnh liệt nhất về tâm linh, khi ở giữa ý thức và vô ý thức, ông nhìn thấy bóng ma người mẹ quá cố của mình cùng với nhiều linh hồn của các bậc chứng ngộ khác.(7) Ở trường hợp Đinh Hùng, nhà thơ luôn tìm đến trải nghiệm cận tử trong thời trai trẻ của mình, không phải bằng thiền hay các biện pháp tâm linh, mà là ma túy. Bởi thế, trong thơ ông cũng như thơ của người bạn thân Vũ Hoàng Chương của ông, mỗi khi có trải nghiệm cận tử lại thoảng màu sương khói, mây mù:

“Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu

Đấy màu hương khói là màu mắt xưa”

(“Gửi người dưới mộ”)

này Biển Giác: mây trời nghiêng nét mặt

cây Từ Bi hiện đóa Ác Hoa đầu

(“Tìm bóng tử thần”)

ta hằng nghe rõ

tiếng buồn trong sương

hằng thấy trên tường

hình ma bóng nhớ

chỗ em ngồi cũ

lên màu khói hương

(“Màu sương linh giác”)

qua xứ ma sầu, ta mất trí

thiêu đi tập sách vẽ hoa nguyền

trời ơi! trời ơi! làn tử khí

lạc lõng hương thầm đoá Bạch Liên

(“Cầu hồn”)

Và chính Đinh Hùng cũng thừa nhận đó là một trạng thái mộng mị, tức là cõi ảo dưới con mắt người thường, có điều trong cõi ảo ấy, tất cả đều rất thật, rất đắm say, tới mức muốn vứt bỏ cả xác trần:

“đôi ta vào hội oan hồn

âm dương tái hợp –

ồ! đây là cuộc tân hôn dị kỳ

nguyệt hoa mặc áo huyền vi

màu nghê thường đó – trời ơi! xiêm y biến hình

tôi van lơn bầy nhạc nữ đồng trinh

đừng cao giọng hát – hồn các em lạc tinh anh bốn trời!

đừng cho thể chất phục hồi

đừng cho tôi khóc, tôi cười vì điên!”

(“Cầu hồn”)

Người tình đã khuất của Đinh Hùng chỉ đóng vai trò như một bóng ma hiện về trong trải nghiệm cận tử của ông. Nếu ta cho rằng cái chết của người con gái ấy đã ám ảnh toàn bộ “Mê hồn ca” thì ta sẽ giải thích như thế nào về những biểu tượng thơ không vướng chút màu sắc ái tình hiện hữu trong thơ Đinh Hùng? Một sự tưởng tượng biến thể từ nỗi nhớ nhung ư? Nếu chỉ đơn giản vậy, Đinh Hùng đâu cần phải làm một chuyến hành trình vào cõi chết để tìm người yêu như chàng Orpheus? Orpheus vào được cõi chết và thuyết phục được thần Hades bởi vì anh ta có một nửa dòng máu thần thánh, tức là một nửa thuộc về cõi âm, thuộc về thế giới kỳ vĩ của tự nhiên. Chi tiết Orpheus xuống âm phủ chỉ là một yếu tố bẩm sinh mà vị bán thần này sở hữu.

Đến phần “Mê hồn”, những bóng ma không còn phảng phất hình bóng của người con gái đã khuất ấy nữa. Những bóng ma ấy đến từ quá khứ nghìn xưa, từ một dĩ vãng xa xôi nào đó. Giống như nhiều nghệ sĩ phương Đông khác, Đinh Hùng có vẻ tin vào thuyết luân hồi. Giống với Huy Cận trong “Lửa thiêng”, ông cảm nhận sâu sắc được cái gọi là “thiên cổ sầu” (8). Nhưng “Thiên cổ sầu” trong thơ Đinh Hùng lại có một màu sắc mãnh liệt hơn với sự dấn thân trải nghiệm táo bạo. Phản ánh trải nghiệm ấy thoang thoảng trong bài thơ “Sông núi giao thần” với tư cách của một người ngoài cuộc chứng kiến:

“hưng vong Vạn Lý thành sầu

trăng ơi! đừng bỏ mái lầu nhân gian

ta chờ thiên địa giao hoan

nhập thần cây cỏ muôn vàn kiếp sau”

rồi dấn sâu hơn trong “Lạc hồn ca” nhưng vẫn chưa dứt duyên nợ với cõi trần:

“hãy thoát thân đi, đuổi bắt hình

hồn ơi, đừng lạc xứ U Minh

ai tìm ta đó trong đêm loạn

có gặp thơ về, nhạc hiển linh?

ta gọi thiên tai, cười mệnh số

đây lời hoan lạc viết nên kinh

đời anh hoa trước nghe thần mộng

còn giữ nguyên trang sách diễm tình”

và cuối cùng hoàn toàn đắm đuối trong bài thơ “Mê hồn ca”. “Mê hồn ca” là bài thơ được lấy tên để đặt cho cả tập thơ. Bởi vậy, có thể xem như “Mê hồn ca” là đích đến của một giai đoạn thơ, của một cuộc thử nghiệm cảm giác cận tử ở Đinh Hùng. Càng đi sâu vào cõi ảo, cõi huyền diệu hay cõi giới tinh thần, thi sĩ càng gặp những bóng ma cổ xưa với những khung cảnh cổ xưa:

“ta lạc hồn giữa lâu đài kỳ dị

suốt muôn đời không hiểu dẫy hành lang

dưới hiên tây từng thế kỷ điêu tàn

gạch ngói cũ nghe hoa thềm rụng cánh

ngày tê tái đợi luân hồi về cạnh

giữa ân tình đứng lặng tượng giai nhân

dáng thiên thu khêu gợi một đêm Tần

lạc âm cung ngẩn ngơ hồn lệ quỷ

ta nằm trong di tích cuộc tang thương

khóc thâu đêm cho thấy lại thiên đường

thuở hưng phục – ôi! cõi lòng hoang phế!

hồn hỡi hồn! xưa chết chìm dưới bể

hãy vùng lên, cười một tiếng bi ai

máu ta say không chảy thoát hình hài

hằng kinh động chốn ăn nằm vĩnh viễn”

Những bóng ma hay những ảo ảnh cổ xưa ấy chính là quá khứ xa xôi từ tiền kiếp. Tiền kiếp hiện lên sống động, tràn ngập cảm xúc bi tráng:

“chiều mù sương lẫn trong tiền kiếp lạ

mỗi năm tàn ước vọng một bông hoa

Diệu Hương em!

trăng xuân rụng, nguyệt thu già

đây thể chất lạc loài đi nức nở

ôi hư vô! đừng gọi lòng ta nữa

ta phá tan hư ảnh, lại điên cuồng

mộng hoàng vương đâu? hỡi mộng hoàng vương!

đêm phản trắc đầy chiêm bao lưu huyết

ta đang nghe Thành Lạc Hồn kiến thiết”

Nhưng Đinh Hùng không chấp nhận là một kẻ chứng kiến tiền kiếp. Ông lao vào tiền kiếp bằng chính phần tinh thần trong kiếp sống của ông, để một lần nữa được sống lại quãng đời huy hoàng ấy, để gợi nhắc lại phần hồn rực rỡ đã mất đi bởi cõi đời chật hẹp của những năm đầu thế kỷ 20. Và lần này ông lại “chiêu hồn”, nhưng không phải chiêu hồn người con gái đã khuất mà là đánh thức con người kỳ vĩ trong bản thân ông và có lẽ cả những “phế vương” tình cờ đọc thơ ông:

“buổi chiều đến, sầu lên Kim Tự Tháp

bóng ta đi hoài cảm góc trời này

từ cố đô, hồn lạc xứ về đây

bao hài cốt nổi trôi bờ biển khác

thủy triều xuống, hiện lên toà Vân Các

chúng ta cùng sống lại – Phế Vương ôi!”

Lời “chiêu hồn” hay sự đánh thức những linh hồn kỳ vĩ này được nhắc lại trong bài thơ “Thần tụng”. Những người không hiểu, đọc bài “Thần tụng” hẳn sẽ thấy vừa rợn rợn vừa điên rồ. Nhưng nếu nhận thức được trải nghiệm tiền kiếp của Đinh Hùng, người đọc sẽ không còn thấy sợ nữa mà chỉ thấy bi thương cho một “phế vương” đơn độc giữa thời đại của những con người “vong bản”:

“hồn nhốt trí phù sinh vào hũ

hồn khép tay thế sự trong vò

gào to một tiếng: ô hô!

của ai này những cơ đồ không tên!

hồn hỡi hồn!

có hồn đây đảo điên vũ trụ

có hồn đây nghiêng ngửa giang san

vắng hồn lạnh lẽo nhân gian

say đâu nước biển, suối ngàn mà say”

Đương nhiên, lời đánh thức các linh hồn kỳ vĩ này khó lọt tai người thường, nhất là ở những năm đầu của thế kỷ 20 tại Việt Nam. Từ sau Cách mạng tư sản Pháp 1789, thế giới chứng kiến sự đi xuống của giới quý tộc hoàng gia cả ở phương Đông và phương Tây, thay vào đó là các cuộc Cách mạng công nghiệp, Cách mạng nhân quyền, Cách mạng của người vô sản. Trong một xã hội bình đẳng kiểu cào bằng với sự phổ cập hóa của mọi giá trị, những linh hồn kỳ vĩ với sự xuất chúng mà Đinh Hùng gọi là “Phế vương” (trong “Mê hồn ca”), hay “tài hoa”, “mấy lòng vương giả bơ vơ”, “tinh anh”, “đãng tử”… (trong “Thần tụng”) trở thành những linh hồn tội lỗi, những kẻ thất thế, thành người rừng “man rợ”… Và nhà thơ trở thành một kẻ hoang tưởng, cần phải bị lãng quên, bị phê phán, bị vứt bỏ. Nhưng những linh hồn kỳ vĩ ấy lại chính là trọn vẹn của linh hồn, một ẩn dụ tượng trưng cho những nét đẹp ban sơ nhất của tinh thần, cho sự nguyên vẹn tròn đầy của siêu thức. Như đã nói ở trên, Đinh Hùng viết thơ với tâm thức thần thoại, nên ông cho rằng sự toàn thiện của linh hồn gắn với hình ảnh vị vua. Ở thời bộ lạc, vị vua hay tộc trưởng đóng vai trò như người liên lạc với thế giới các vị thần. Trong thần thoại Hy Lạp, vua của một thành bang thường có dòng máu thần thánh, họ là những vị bán thần vượt trội hơn người trần đoản mệnh. Quan điểm của Nho giáo cũng cho rằng vua là “thiên tử, gánh vác sứ mệnh của các vị thần để cai trị con dân. Ở Ấn Độ có bộ môn Raja Yoga chuyên luyện tập tâm thức, trong đó “Raja” có nghĩa là “hoàng gia”, với ngụ ý rằng: người sống bằng ý thức linh hồn chính là vị vua của chính mình. Bởi thế, biểu tượng vị vua xuất hiện nhiều lần trong thơ Đinh Hùng chính là thể hiện cho phần tinh thần mà những con người “vong bản” đã vứt bỏ trong cuộc sinh tồn.

Tập thơ “Mê hồn ca” ra đời vào năm 1954, trước hiệp định Geneva. Lúc này, chẳng mấy ai còn quan tâm đến thơ ca nữa và cũng chẳng mấy ai có nhu cầu trải nghiệm tinh thần nữa. Thế giới lúc này vẫn đang trong cơn tao loạn triền miên và tiếp tục chuỗi tan vỡ kéo dài từ cuối thế kỷ 18. Những cảm nhận về thời đại dù không được nói rõ nhưng luôn hiện diện trong tập thơ của ông:

“ngủ một giấc đời nhuộm màu kim cổ

ta mỉm cười nên thế sự suy vong

mau vùng lên giữ lại Thái Dương hồng

trời lâm nạn, thôi! hành tinh tan vỡ!

hồn lệ sầu rơi!

đâu những vùng trời

không làm thương nhớ?

ta dẫn lối về đây đoàn ca vũ

tự bốn mùa địa ngục vắng âm thanh

chúng ta khóc như một bầy thú dữ

lòng dã man nghe trái đất tan tành”

(“Mê hồn ca”)

chiều Thăng Long sầu xuống bâng khuâng, cửa Đế Thánh bỏ ngỏ, hằng gợi khí đời lạnh sương bay

hồn Do Thái gió lên bát ngát, niềm tâm ý đi xa, luống ngại lúc trời thanh sao mọc

nhân thế bỏ hoài nhân thế; ồ! bao phen dâu bể ngậm ngùi giấc mộng Châu Dương, ai đến đó xin bày riêng Ngự Uyển, còn khi liễu ủ đào phai

hồng nhan để mặc hồng nhan; ôi! những trận cuồng phong tan tác cành hoa Thục Nữ, ta về đây thử đốt hết A Phòng, này lúc thành say lửa bốc

(“Thần tụng”)

“ta say ánh lửa tinh cầu

dựng lên địa chấn, loạn mầu huyền không

trận cười tan hợp núi sông

cơn mê kỳ thú lạ lùng cỏ hoa

hý trường đổi lớp phong ba

mượn tay nguỵ tạo xoá nhoà biển dâu”

(Sông núi giao thần”)

Qua những câu thơ ấy, không phải Đinh Hùng không hiểu về thời thế, không phải không biết về các biến chuyển của thời đại. Nhưng ông không xuôi theo thời đại ấy, ông không viết các bài thơ Cách mạng, không lao vào các cuộc thử nghiệm thủ pháp thơ ca, ông dường như coi thơ là một sứ mệnh, một phương thức để giao tiếp với thế giới bên kia, một phép màu để đánh thức những con người “vong bản” quay trở về với trạng thái toàn thiện ban sơ của mình, một “thị phạm ma thuật” để đánh thức những giá trị tinh thần kỳ vĩ hồi sinh trong thế giới con người.

Tôi không đọc Đinh Hùng bằng con mắt của nhà phê bình hay nghiên cứu văn chương, e rằng ông không kỳ vọng điều ấy ở độc giả. Tôi đọc Đinh Hùng qua những trải nghiệm tinh thần của mình và tôi nhận thấy những sự tương đồng trong các ám ảnh của tôi và con người thơ của ông trong “Mê hồn ca”. Bởi thế, tôi không có nhu cầu mổ xẻ các thủ pháp nghệ thuật trong thơ ông, bởi điều ấy là không cần thiết nếu ta thực sự vứt bỏ cõi thực để bước vào thế giới thơ hư ảo của ông. Vì vậy, nếu tôi viết về thơ Đinh Hùng bằng những nguyên tắc của phê bình hay nghiên cứu thì tôi đã phản bội lại chính mình, tôi đẩy bản thân mình vào tình trạng “vong bản”. Một khi bạn đã chấp nhận “vong bản” một lần, bạn sẽ trượt dài trong chuỗi “vong bản” của đời mình. Thế nên, tôi đã quyết định viết về Đinh Hùng theo cái nhìn của cá nhân tôi, dù rằng nó có thể khiến người khác nhìn về tôi như một kẻ hoang tưởng. Nhưng, một khi đã bước vào cõi hư ảo, dù theo cách này hay cách khác, tức là đã từng trải nghiệm đời sống linh hồn, thì khó có thể nhìn vạn sự bằng nhãn quan của thế giới hữu hình.

“Mê hồn ca” trên hệ thống tuyển chọn sách Hang Cáo: https://www.hangcao.info/san-pham/me-hon-ca/

Chú thích:

(1) Đặng Tiến viết “Thi giới Đinh Hùng” sau khi Đinh Hùng qua đời. Ông không chỉ viết về “Mê hồn ca” mà viết về rất nhiều bài thơ khác của Đinh Hùng. Nhị Linh cho rằng Đặng Tiến là “người được chọn” để viết về Đinh Hùng bởi vì ông không gói gọn thi giới của Đinh Hùng trong “Mê hồn ca”. Nhưng “Mê hồn ca” lại là những bài thơ tinh túy nhất của Đinh Hùng, nên theo tôi, nếu không thể giải mã kỹ lưỡng “Mê hồn ca” thì cũng không thể hiểu được những bài thơ khác của ông. https://bookhunterclub.com/thi-gioi-dinh-hung/

(2) Trích “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du.

(3) Bài viết “Thơ Đinh Hùng: hai thế giới” của Nhị Linh khẳng định rằng thơ Đinh Hùng “quyến rũ theo lối mị” và bàn nhiều về nỗi sợ của người khác đối với thơ Đinh Hùng. Bài viết có rất nhiều tư liệu hay nhưng việc sử dụng chúng để giải mã thơ Đinh Hùng không giúp chúng ta cảm và hiểu thơ ông tốt hơn. https://nhilinhblog.blogspot.com/2015/03/tho-dinh-hung-hai-the-gioi.html

(4) Trích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ.

(5) Bài viết “Đinh Hùng người kiến trúc chiêm bao” của Đỗ Lai Thúy trong tập tiểu luận “Mắt thơ – Phê bình phong cách Thơ Mới” tập trung vào giải mã các biểu tượng thơ của Đinh Hùng mà lý giải thơ ông như những nhà thơ khác thuộc trường phái tượng trưng.

(6) Trích “Walden – Một mình sống trong rừng” của Henry David Thoreau. Bản dịch của Tiết Hùng Thái.

(7) “Krishnamurti tinh yếu” do Nguyễn Ước biên soạn.

(8) Cụm từ “thiên cổ sầu” được sử dụng trong bài “Ê chề” của Huy Cận: “Một chiếc linh hồn ngọc/Mang mang thiên cổ sầu”.

Home 2018 / page 4

Tự do học thuật và tự do trí tuệ

Cơ chế dân chủ là một cơ chế mở, không chỉ đảm bảo quyền lợi của người dân mà còn tạo ra cơ hội để những người tài năng dễ dàng hơn trong việc thể hiện và đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên, đó chỉ là lý thuyết. Cơ chế dân chủ với tình trạng dân trí thấp và trong đó, những quyền hạn về tự do học thuật và tự do trí tuệ bị ngăn cản thì đó chỉ là dân chủ giả hiệu. Quyền tự do ngôn luận, tự do biểu hiện sẽ trở nên vô nghĩa khi người dân không được tiếp cận tri thức và những chuyên gia không được đưa ra tiếng nói khách quan mang tính khoa học để góp ý cho các vấn đề của xã hội. Cho đến nay, vấn đề Tự do học thuật (Academic Freedom) và Tự do trí tuệ (Intellectual Freedom) chỉ mới được đưa ra ở dạng khái niệm và chưa được quan tâm đúng mức trên toàn thế giới.

Tự do học thuật (Academic Freedom) là một khái niệm gây nhiều hiểu lầm ở Việt Nam. Chúng ta thường dễ đánh đồng quyền tự do này với tự do biểu hiện. Từ điển Britannica cho biết: “Tự do học thuật là quyền của giảng viên và học viên được tự do giảng dạy, nghiên cứu và đeo đuổi kiến thức mà không  có sự can thiệp bất hợp lý hoặc các hạn chế từ luật, quy định về thể chế, hay áp lực từ công chúng. Các yếu tố cơ bản của nó bao gồm  quyền tự do của giảng viên để tìm hiểu bất cứ chủ đề nào liên quan đến tri thức, trình bày các phát hiện của mình cho sinh viên và đồng nghiệp, công bố các dữ liệu và kết luận của họ mà không bị kiểm soát hay kiểm duyệt, giảng dạy theo cách mà họ cho là phù hợp với nghiệp vụ. Đối với sinh viên, các yếu tố cơ bản gồm: quyền tự do chọn học các môn học, đưa ra kết luận và thể hiện ý kiến của mình”. (1)

Như vậy quyền Tự do học thuật có phạm vi trong trường học và gắn liền mật thiết đến hệ thống giáo dục, đặc biệt là ở cấp bậc đại học. Qủa vậy, nền tảng của Tự do học thuật được xây dựng từ các trường đại học của Châu Âu thời Trung cổ. Từ thời này, các trường đại học với sự bảo trợ của hoàng gia đã tự lập nên một hệ thống tự trị với quyền tự quyết trong việc thành lập khoa. Cho đến thế kỷ 18, nhà thờ Công giáo La Mã và ở một số khu vực, những người theo đạo Tin Lành đã tìm cách kiểm duyệt các trường đại học. Các trường đại học mất dần vị thế tự trị và các giáo sư phải chịu sự quản lý của chính phủ. Mâu thuẫn này kéo dài cho đến nay. Mặc dù vậy một điều thú vị khi bạn theo dõi các phiên họp hay điều trần liên quan đến Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, Tự do học thuật vẫn không hề được đề cập đến.

Một khái niệm khác rất dễ nhầm lẫn với Tự do học thuật là Tự do trí tuệ (Intellectual Freedom). Tự do trí tuệ bao gồm quyền tự do nắm giữ, tiếp nhận và phổ biến các ý tưởng mà không hề bị hạn chế. Nói một cách khác, quyền tự do trí tuệ bảo vệ quyền của một cá nhân trong việc tiếp cận thông tin, khám phá, xem xét và thể hiện ý tưởng. Như vậy, tự do trí tuệ chính là nền tảng cho tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin và quyền riêng tư.

Tự do trí tuệ bao gồm quyền tự do nắm giữ, tiếp nhận và phổ biến các ý tưởng mà không bị hạn chế. Được xem như một thành tố không thể tách rời của một xã hội dân chủ, quyền tự do trí tuệ bảo vệ quyền của một cá nhân trong việc tiếp cận, khám phá, xem xét, và thể hiện ý tưởng và thông tin làm cơ sở cho một công dân tự quản và thông tin đầy đủ. Tự do trí tuệ bao gồm nền tảng cho tự do ngôn luận, nói tiếng và báo chí và liên quan đến quyền tự do thông tin và sự riêng tư. (2) Trong thời đại Internet hiện nay, Tự do trí tuệ đã được mở rộng hơn và sự kiểm duyệt bị hạn chế dần, thế nhưng tự do trí tuệ vẫn gặp phải các rào cản do sự can thiệp ngầm của các tập đoàn hoặc của các quốc gia. Chính công nghệ mang đến Tự do trí tuệ nhưng cũng trở thành công cụ để hạn chế tự do trí tuệ bằng các thuật toán ngầm hoặc bằng các điều luật phức tạp trên Internet.

Nếu tự do học thuật chỉ gói gọn trong phạm vi của các trường đại học thì tự do trí tuệ có phạm vi rộng lớn hơn, những cũng vì thế mà ít người quan tâm hơn. Nếu có, họ chỉ quan tâm đến các quyền biểu hiện mà không quan tâm đến các quyền tiếp cận. Một điều hiển nhiên, nếu bạn không có quyền tiếp cận thông tin thì sự biểu hiện của bạn là vô giá trị.

Mặc dù nhiều người cho rằng quyền tự do học thuật và quyền tự do trí tuệ chỉ có thể có được trong một xã hội dân chủ, nhưng đây là cái nhìn thần thánh hóa cơ chế dân chủ. Một xã hội dù là độc tài hay quân chủ, vẫn có thể duy trì tự do học thuật và tự do trí tuệ, nếu họ muốn chính thể của họ được vận hành bởi những người có tài năng. Ngược lại, một xã hội đảm bảo quyền dân chủ của đám đông, để đám đông can thiệp vào công trình nghiên cứu hay sáng tạo của tầng lớp trí thức, có thể sẽ khiến xã hội rơi dần vào mông muội, và sớm muộn lại trở thành một xã hội toàn trị của đám đông. Như vậy, vấn đề quyền tự do học thuật và quyền tự do trí tuệ không nên chỉ được xem xét như một vấn đề nhân quyền, mà nên được xem xét như một phần của chiến lược phát triển nhân tài cho quốc gia.

Ở Việt Nam, tự do học thuật và tự do trí tuệ dường như là những khái niệm xa xỉ. Các nhà đấu tranh và vận động xã hội dù chính thống hay không chính thống đều cho rằng quyền lợi của những người dân nghèo, những người phụ nữ yếu thế quan trọng hơn quyền lợi của những người đeo đuổi con đường học tập, nghiên cứu và sáng tạo. Chính quyền cùng với quy định cứng nhắc về kiểm duyệt nội dung đã sinh ra một hệ thống trường học và thư viện không đảm bảo quyền tiếp cận thông tin đầy đủ cho cả giảng viên và học viên, đồng thời cũng luôn mong muốn định hướng và gò ép họ theo một số hướng nghiên cứu cụ thể. Tất cả dẫn đến tình trạng xập xệ của giới tri thức – những người đóng vai trò cung cấp nền tảng tri thức cho xã hội. Kết quả là, các chính sách sai lầm, các phát ngôn vô tội vạ, các biện pháp xử lý khó khăn tệ hại…v….v.. liên tiếp nối đuôi nhau do thiếu nền tảng tri thức cần thiết. Tình trạng này có lẽ sẽ càng xấu đi trong những năm sắp tới, bởi sự thiếu nền tảng tri thức lại dẫn đến sự xuống cấp trầm trọng của dân trí. Và cứ thế, Việt Nam sẽ gặp khó khăn nhiều hơn trên con đường dân chủ hóa cũng như bất cứ con đường xây dựng thể chế nào đó khác.

Có lẽ đã đến lúc, chính quyền, các trí thức, các nhà đấu tranh và vận động xã hội cần đặt lại vấn đề tự do học thuật và tự do trí tuệ một cách nghiêm túc. Bởi vì, dù dưới bất cứ thể chế nào, sự coi thường vai trò của nền tảng tri thức thường đưa xã hội đến với mông muội, lạc hậu và sụp đổ.

Hà Thủy Nguyên

(1) https://www.britannica.com/topic/academic-freedom

(2) https://www.ala.org/advocacy/intfreedom/censorship/faq

Home 2018 / page 4

TỰ DO VÀ BÌNH ĐẲNG TRONG TIẾP CẬN TRI THỨC – VẤN ĐỀ CHỦ CHỐT ĐỂ CẢI THIỆN NỀN HỌC THUẬT

Tự do trí tuệ và Tự do học thuật là những yếu tố căn bản trong việc xây dựng một chiến lược nhân tài của quốc gia, nhưng nếu tri thức không được tiếp cận một cách tự do và bình đẳng thì những khái niệm vừa được nêu ra chỉ là những ngôn từ sáo rỗng. Trong cả tự do trí tuệ hay tự do học thuật đều bao hàm ba kiểu quyền lợi: quyền tiếp cận, quyền lựa chọn và quyền biểu đạt. Trong đó, quyền tiếp cận đóng vai trò nền tảng hơn để xây dựng một hệ thống tri thức và học thuật tự do. (Đọc thêm về Tự do học thuật và Tự do trí tuệ: https://bookhunterclub.com/tu-hoc-thuat-va-tu-tri-tue/ )

Các vấn đề của quyền tiếp cận tri thức có đôi nét khá giống với quyền tiếp cận thông tin nhưng có nhiều điểm rất khác. Sự khác nhau này mấu chốt nằm ở sự khác biệt giữa “tri thức” và “thông tin”. Thông tin là một tập hợp dữ liệu liên quan đến một thực tiễn nào đó. Thực tiễn này vì nhiều lý do có thể bị giấu kín hoặc cần được tiết lộ, tùy thuộc và quan điểm của các bên sở hữu thông tin và người dân. Nhưng tri thức thì khác, tri thức là những tập hợp kiến thức được các tác giả sáng tạo hoặc nghiên cứu nên. Vậy nên, người có quyền quyết định về tình trạng công bố tri thức chỉ có thể là chính tác giả. Việc đánh đồng “tri thức” với “thông tin” đã tạo ra một tình trạng tranh cãi nhập nhằng liên quan đến việc tri thức thuộc sở hữu của nhân loại và người dân được tự do tiếp cận hay tri thức thuộc sở hữu của một người hay nhóm người. Trong khi đó, tri thức không phải thông tin và không phải đương đầu với tình trạng gây ảnh hưởng đến các vấn đề an ninh. Ví dụ như một cuốn sách nghiên cứu về lịch sử quân sự của Mỹ sẽ không gây nguy hiểm đến an ninh quốc gia bằng việc công bố thông tin của một cơ sở quân đội Mỹ bí mật. Điều này có nghĩa là, tri thức không nên bị giới hạn trong việc tiếp cận mà cần được khuyến khích và phổ biến.

Thế nhưng, thực tế là, tiếp cận tri thức vẫn rất khó khăn dù Internet đã góp phần không nhỏ trong việc phổ biến kiến thức. Phần lớn tri thức thế giới đều nằm trong kho tư liệu của các trường đại học, các viện nghiên cứu… mà không có cơ chế mở cho phép một người bình thường được phép tiếp cận. Bạn bắt buộc phải trở thành sinh viên hoặc viện sĩ mới tiếp cận được các kho tư liệu này. Nếu không, bạn sẽ chỉ được tiếp cận sách và tài liệu ở dạng thứ cấp, tức là qua các bản tóm lược của những tác giả có đủ vị thế để tiếp cận, và đương nhiên, bạn không có cơ hội để kiểm chứng bởi vì việc tiếp cận các kho tư liệu không hề dễ dàng. Việc các trường đại học hay các viện nghiên cứu giữ kín tri thức săn tìm được cho nội bộ là một hành vi độc quyền, bởi thông qua đó họ có thể tạo dựng được thế lực trí thức hoạt động cho họ. Điều này cũng tương tự với tình trạng Thư viện của Tòa thánh Vatican, khi mà Vatican không dễ dàng cấp phép cho một người được đặt chân vào thư viện và cũng không cho phép được sao chép kiến thức có trong thư viện ấy. Chỉ rất ít trường đại học và viện nghiên cứu công khai các kho tư liệu và sách nghiên cứu với yêu cầu trả phí. Việc trả phí này không phải là điều bất hợp lý, bởi vì tự do không đồng nghĩa với miễn phí. Tự do tiếp cận tri thức là quyền được có cơ hội tiếp cận, còn các mức phí là để trả một phần cho việc duy trì hệ thống hoặc cho các tác giả, dịch giả (nếu họ còn sống). Đây cũng là điều hợp lý. Nhưng độc quyền tri thức cho một nhóm người trong hệ thống nào đó tạo ra bất bình đẳng và tạo ra tình trạng phe cánh trong giới trí thức và học thuật.

Một câu hỏi đặt ra, đó là, nếu một công trình nghiên cứu hoặc sáng tạo của trường đại học hoặc viện nghiên cứu là một tri thức hữu ích, vậy thì người bình thường có quyền được tiếp cận hay không. Điều này còn tùy thuộc vào việc công trình ấy có được tài trợ bằng tiền thuế của người dân hay không. Nếu công trình nghiên cứu hoặc sáng tạo thuộc trường đại học, viện nghiên cứu hay thậm chí là của các tập đoàn, các nhóm start-up đều dựa trên các nguồn tài trợ có xuất xứ từ chính phủ thì việc công bố chúng là điều hiển nhiên. Bởi vì, những tập thể ấy đã được người dân trả công để thực hiện công trình. Ngược lại, nếu công trình được thực hiện không dựa trên các nguồn quỹ đến từ chính phủ, tức từ thuế của dân thì những công trình ấy thuộc về sở hữu của nhà đầu tư và nhà đầu tư hoàn toàn có quyền quyết định công bố chúng hay không.

Tại Việt Nam, tình trạng tự do tiếp cận tri thức gặp rất nhiều cản trở. Cản trở lớn nhất đến từ việc tri thức không hề được coi trọng. Các trường đại học, ngân quỹ không được đầu tư chính đáng cho việc xây dựng các thư viện với khối lượng sách đa dạng và cần thiết cho các chuyên ngành. Các thư viện công có số lượng đầu sách ít, đa phần là sách phục vụ tuyên truyền thể chế và sách giải trí, không nhiều sách tri thức. Những kho tri thức chỉ phục vụ cho một số ít các nhà nghiên cứu được cấp phép. Với tình trạng như vậy, không chỉ một người bình thường mà ngay cả sinh viên và các nhà nghiên cứu cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm tư liệu. Đó là còn chưa kể đến sự chênh lệch rõ rệt trong vị thế của các nhà nghiên cứu, trí thức thuộc hệ thống của chính quyền và của các nhà nghiên cứu, trí thức độc lập.

Đôi khi, việc tự do tiếp cận tri thức lại phụ thuộc vào vấn đề kiểm duyệt của một quốc gia. Nếu một dạng tri thức bị kiểm duyệt, đặc biệt là trong các nhà nước độc tài như thời kỳ Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc, hay xa xưa hơn là Châu Âu dưới đêm trường Trung Cổ với quyền lực của giáo hội, thì một người sẽ mang tội nặng nếu muốn tiếp cận. Ở Việt Nam hiện nay, tuy không bị phạt tội nặng cho việc tiếp cận tri thức cấm nhưng cũng không dễ dàng gì để đọc một cuốn sách đã bị cấm phát hành. Tình trạng cấm đoán một số dạng tri thức càng khiến cho tình trạng độc quyền tri thức được củng cố và tai hại hơn, còn tạo ra các công trình nghiên cứu hoặc sáng tạo khiếm khuyết. Liên quan đến tình trạng kiểm duyệt tri thức, tôi sẽ có một bài viết khác.

Do đó, nếu muốn thay đổi thực trạng tồi tệ của nền học thuật Việt Nam hiện nay, không thể đầu tư vô tội vạ vào các công trình nghiên cứu mà cần thiết là giải quyết tận gốc: Tạo cơ hội tiếp cận tri thức một cách tự do và bình đẳng. Việc tạo cơ hội này đương nhiên sẽ đe dọa vị thế của một số trí thức được bảo trợ bởi chính quyền, nhưng bù lại là cơ hội để xuất hiện thêm nhiều trí thức có tài năng và có niềm đam mê hơn.

Hà Thủy Nguyên

Home 2018 / page 4

KHI VĂN HÓA ĐỌC THIẾU NỀN TẢNG HỌC THUẬT VÀ PHÁP LUẬT

Có lẽ chưa bao giờ văn hóa đọc lại nở rộ như ngày nay, đặc biệt là sự hỗ trợ từ chính quyền và các kênh báo đài chính thống. Không khí tấp nập nhộn nhịp trong các hội trợ sách, các hội thảo sách, các cuộc chạy đường trường cổ vũ phong trào đọc dường như làm sống dậy cái không khí Đông Kinh nghĩa thục: “Buổi diễn thuyết người đông như hội/Kỳ bình văn khách đến như mưa”. Chứng kiến cảnh “trăm hoa đua nở” của các đơn vị xuất bản, các cộng đồng đọc sách, các cá nhân cổ vũ đọc sách…v…v… chúng ta dễ lầm tưởng rằng một tương lai tươi sáng cho công cuộc nâng cao dân trí đang diễn ra. Tuy nhiên, nếu nhìn cận cảnh văn hóa đọc ở Việt Nam sẽ thấy một nguy cơ của tình trạng nhiễm độc “tinh thần” đang là vấn đề nan giải.

Một điểm dễ thấy ở thị trường sách Việt Nam đó là sự vượt trội về doanh số của các đầu sách dạy làm giàu, dạy kỹ năng sống, tiểu thuyết tình yêu…v…v… so với các đầu sách khác. Những cuốn sách này thường khá dễ đọc, giải quyết các nhu cầu trước mắt của người đọc, và thường được những độc giả thiếu nền tảng kiến thức ưa thích. Ở phương Tây hay Trung Quốc, những cuốn sách dạng này cũng được số đông độc giả ưa thích nhưng chúng không có vị trí thống soái như ở Việt Nam. Dù cho chúng có thể là “best seller” nhưng người dân vẫn ý thức được rằng vẫn có những cuốn sách tầm cỡ cao hơn thế, có tính học thuật hơn và sách hàn lâm vẫn giữ một vị trí thống soái dù số lượng bán ra không bằng. Nhưng ở Việt Nam, sách hàn lâm cứ như thể là một thế giới vô cùng biệt lập đối với độc giả đại chúng.

Đặc biệt là các sách dạy làm giàu, dạy kỹ năng sống luôn xuất hiện ở các giá sách của các quán café sách như một phần của phong trào nâng cao văn hóa đọc. Đây cũng là các cuốn sách ưa thích trong các chương trình đào tạo nhân viên của các tập đoàn, các công ty bán hàng đa cấp…v…v… Đến nay, sự đúng – sai của các cuốn sách này vẫn gây nhiều tranh cãi trên thế giới và ở Việt Nam, tuy nhiên, nếu đưa số sách này vào làm một phần chiến lược của phong trào nâng cao dân trí thì chẳng khác nào vứt vào tay người dân những “cái cần” chẳng biết có “câu được cá” hay không? Và nếu các cuốn sách này không thực sự giúp được người dân cải thiện cuộc sống mà chỉ được sử dụng để khích lệ ham muốn kiếm lợi thì đó không phải là nâng cao dân trí mà là làm giảm đi khả năng làm việc có chuyên môn để thay bằng các phương pháp làm giàu nhanh chóng.  Trong khi ấy, các cuốn sách có tính chuyên môn sâu hay tính hàn lâm vẫn thiếu vắng trên thị trường sách và được in với số lượng rất ít.

Tiểu thuyết tình yêu hay còn có tên gọi mới là tiểu thuyết ngôn tình không chỉ xuất hiên nhan nhản ở các nhà sách, các trang bán sách online mà còn cả ở Thư viện Quốc gia, nơi vốn dĩ là tập hợp của những cuốn sách có tính hàn lâm hoặc hữu dụng. Nếu ai đã từng một lần tới phòng đọc của Thư viện Quốc gia Hà Nội hẳn sẽ ngạc nhiên khi thấy tiểu thuyết ngôn tình chiếm một vị trí lớn trong thư viện: không chỉ có ngôn tình Trung Quốc mà còn có đủ cả ngôn tình Anh, Pháp và Việt Nam. Trong khi ấy, thư viện lại thiếu vắng các tác phẩm văn học kinh điển của thế giới mà các dịch giả từ đầu thế kỷ 20 đến nay vẫn tiếp tục dầy công chuyển ngữ. Thậm chí, nhiều tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam cũng không thể tìm thấy tại Thư viện Quốc gia Hà Nội. Những bạn trẻ đến thư viện có thể thoải mái ngồi đọc tiểu thuyết ngôn tình bên cạnh những nhà nghiên cứu đọc các cuốn sách dầy cộp. Đây có lẽ là một cảnh khá hi hữu tại một Thư viện công có tầm cỡ quốc gia với nền tảng lưu trữ học thuật hơn 100 năm. Cùng lúc ấy, các tác giả trẻ viết tiểu thuyết tình yêu mang tính thị trường và các tác giả sáng tác văn chương mang tính nghệ thuật cũng rất khó để phân định được ranh giới dẫn đến một tình trạng loạn chuẩn trong nền văn học, và người đọc có thể hoàn toàn sẽ bị dẫn hướng bởi truyền thông. Ví dụ như các độc giả trẻ sẽ không thể phân biệt được sự chênh lệch về chất lượng giữa một cuốn tiểu thuyết ngôn tình sử dụng yếu tố lịch sử (như trường hợp “Thành kỳ ý” của Lê Ngọc Linh hay “Đại Nam dị truyện” của Phan Cuồng) với một cuốn tiểu thuyết lịch sử công phu (như “Hồ Qúy Ly” của Nguyễn Xuân Khánh hay “Vạn xuân” của Yveline Féray).

Tình trạng “vàng” không được coi trọng bằng “thau” này đã khiến cho nền văn hóa đọc của Việt Nam ở thời sung sức của giai đoạn đầu nhiễm những tạp chất khó có thể tẩy rửa khỏi thói quen đọc sách của thế hệ trẻ. Đây là hệ quả của sự thiếu nền tảng học thuật và pháp lý trong chiến lược của phong trào nâng cao văn hóa đọc. Trong “ĐỀ ÁN Phát triển Văn hóa Đọc trong cộng đồng Giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030” của Thủ tướng chính phủ được thảo ra từ năm 2010, việc xây dựng nền tảng học thuật và pháp lý làm chỗ dựa cho xuất bản gần như không được đề cập đến mà hầu như chỉ nhấn mạnh vào công tác tuyên truyền nhằm gia tăng lượng độc giả. Trên thực tế, nếu không thể xuất bản ra những cuốn sách có chất lượng cao, đảm bảo tính chính xác của kiến thức, đạt các chuẩn của tiếng Việt và không có các sai phạm về bản quyền thì nền văn hóa đọc ấy sẽ chỉ gây hại cho độc giả mà thôi. Vấn đề chính yếu của văn hóa đọc hiện nay không phải là tình trạng giảm sút của số lượng độc giả mà tình trạng lỏng lẻo trong quản lý chất lượng sách.

Ngăn ngừa đạo văn có lẽ là vấn đề pháp lý quan trọng nhất của một nền văn hóa đọc. Tuy nhiên, cho đến nay, khung pháp lý xử lý đạo văn vẫn còn lỏng lẻo, không có cơ quan giải quyết các khúc mắc về đạo văn một cách chuyên nghiệp, cũng không có mức phạt nghiêm khắc thực sự để ngăn ngừa đạo văn. Hầu như trong các vụ đạo văn bị phanh phui trên truyền thông, những tác phẩm đạo văn không hề bị thu hồi và tác giả cũng không phải chịu một mức phạt nào, thậm chí nhiều trường hợp còn không xin lỗi một cách công khai. Qúy cuối năm 2015 cho đến quý I năm 2016, độc giả được chứng kiến hai vụ đạo văn đình đám: Một là sự việc nhà thơ Phan Huyền Thư đạo thơ của Phan Ngọc Thường Đoan. Hai là sự việc Lê Ngọc Linh trong tiểu thuyết ngôn tình có yếu tố lịch sử “Thành Kỳ Ý” đã đạo rất nhiều đoạn văn từ cuốn sách “Tứ thư bình giải” cùng nhiều bài báo từ các trang online của báo Dân Trí, Vietnamtourism…v…v… Cả hai trường hợp đạo văn này, sách đều không bị tịch thu và không bị nhận mức phạt nặng, cùng lắm chỉ là bị ép xin lỗi hoặc như nhà thơ Phan Huyền Thư chỉ cần trả lại giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội là đủ. Như trường hợp “Thành Kỳ Ý”, mức độ sai phạm trầm trọng hơn khi tác giả của cuốn sách này kêu gọi độc giả ủng hộ cô ta số tiền lên đến hơn 200 triệu đồng trước khi cô ta ra mắt sách. Số tiền này không hề được hoàn trả cho người ủng hộ khi cuốn sách được chứng minh là đạo văn, và cũng không có khoản phạt tài chính nào với sai phạm này. Cho đến nay, Lê Ngọc Linh vẫn không hề bị xử phạt dù cho đã có hơn 1000 chữ ký từ các độc giả vận động trên mạng và gửi thư khiếu nại đến Cục xuất bản. Hai ví dụ trên thật sự đã cho ta thấy sự quản lý lỏng lẻo của các đơn vị quản lý văn hóa. Đây chỉ là hai vụ scandal nổi tiếng trong số rất nhiều những sự vụ khác ít đình đám hơn và rất nhiều những vụ chưa được phanh phui vì chưa có ai phát hiện. Sẽ ra sao nếu Việt Nam có một nền văn hóa đọc mà ai ai cũng có thể đạo văn mà không phải chịu trách nhiệm gì? Đó là một nền văn hóa đọc không bảo vệ sự sáng tạo mà chỉ dung túng cho thói quen viết lách thiếu trách nhiệm và trình độ.

Không chỉ là một nền văn hóa đọc thiếu sự khuyến khích sáng tạo mà nền văn hóa đọc Việt Nam còn thiếu sự chính xác và tinh thần khoa học. Tình trạng nội dung sách không đảm bảo chất lượng ngôn ngữ hay khoa học là khá phổ biến. Gần như năm nào người đọc cũng được chứng kiến các sự việc sách dịch không chính xác ( như “Lolita” do Dương Tường dịch, “Sapiens, lược sử về loài người” do Nguyễn Thủy Chung và Võ Minh Tuấn dịch, “Căn tính và bạo lực – Huyễn tưởng về số mệnh” do Trần Tiễn Cao Đăng và Lê Tuấn Huy dịch…). Những cuốn sách này hoặc là thiếu chính xác trong chuyển ngữ, hoặc là diễn giải không đúng với văn phạm tiếng Việt. Bên cạnh đó còn phải kể đến không ít các cuốn sách nghiên cứu, khảo cứu, hướng dẫn… thiếu tính chính xác trong việc sử dụng kiến thức. Tôi sẽ không đề cập đến ví dụ về tình trạng sách nghiên cứu, khảo cứu sử dụng sai kiến thức bởi vì sẽ rất dài dòng để giải thích. Thay vào đó, tôi sẽ sử dụng một cuốn giáo trình tiếng Anh làm ví dụ. Đây là cuốn giáo trình tiếng Anh do trung tâm Elight phát hành, cấp phép bởi NXB Thanh Niên, có tên “Tiếng Anh cơ bản”. Một giáo viên dậy tiếng Anh rất nổi tiếng người Mỹ có tên là Dan Hauer đã chỉ ra rất nhiều lỗi sai ngữ pháp và từ vựng nghiêm trọng ở cuốn giáo trình này cùng với hơn 300 chi tiết đạo văn từ các giáo trình tiếng Anh khác. Cuốn sách được bán với giá 299 ngàn, một mức giá khá cao. Video nhanh chóng được lan truyền trên mạng với hơn 660 ngàn lượt xem và đến nay cũng chưa có dấu hiệu của đơn vị quản lý văn hóa và giáo dục xử lý các lỗi sai về kiến thức cũng như đạo văn trong cuốn sách này. Việc cung cấp sai kiến thức là một lỗi nghiêm trọng không kém gì đạo văn bởi những cuốn sách ấy phát tán các nhận thức sai lệch cho độc giả. Một nền văn hóa đọc mà trong đó độc giả dễ dàng bị nhồi nhét những nhận thức sai lệch thì đó là một nền văn hóa không lành mạnh. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do thiếu một đội ngũ có trình độ học thuật cao tham gia các khâu thẩm định chất lượng nội dung và một nền xuất bản thiếu các tiêu chuẩn khoa học.

Mặc dù vậy, ở góc khuất của nền văn hóa đọc nhốn nháo ngày nay vẫn có những cộng đồng đọc sách nghiêm túc những mong tuyển chọn các cuốn sách hay giới thiệu cho bạn đọc, vẫn có những tác giả và dịch giả miệt mài ngày đêm âm thầm cống hiến cho tri thức, vẫn có những độc giả khôn ngoan biết tìm đến các nguồn sách có chất lượng cao. Tất cả những yếu tố này tạo nên một ốc đảo tri thức nằm giữa biển sách ngổn ngang của thị trường. Tuy rằng biệt lập nhưng họ vẫn luôn cố gắng để duy trì ngọn lửa tri thức. Và dù cho xã hội không có một khung pháp lý hay một khung học thuật để quản lý chất lượng sách trên thị trường thị họ cũng tự xác lập cho mình những chuẩn mực riêng trong ốc đảo tri thức ấy.

Hà Thủy Nguyên

Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An số ra ngày 10 tháng 4 năm 2018