Home Dịch thuật Dịch thơ Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc Vân – Lý Bạch

Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc Vân – Lý Bạch

Bỏ ta người đi
Ngày qua ngày ai người giữ lại
Lòng ta rối bời
Hôm nay sao ưu phiền tới vậy.
Gió thu muộn dặm tiễn nhạn bay
Đành ở lầu cao chuốc rượu say
Cốt cách Kiến An văn Bồng Lai (*)
Chàng Tạ cao nhã vẫn còn đây. (**)
Lòng tràn thi hứng thơ bay bổng
Muốn leo trời cao hái vầng trăng
Rút đao chém nước nước vẫn chảy,
Nâng chén tiêu sầu sầu thêm sầu,
Sống giữa cõi đời không đắc ý
Mai này xõa tóc cưỡi thuyền chơi.

Hà Thủy Nguyên

Bản Hán Việt:

Khí ngã khứ giả,
Tạc nhật chi nhật bất khả lưu.
Loạn ngã tâm giả,
Kim nhật chi nhật đa phiền ưu.
Trường phong vạn lý tống thu nhạn,
Đối thử khả dĩ hàm cao lâu.
Bồng Lai văn chương Kiến An cốt,
Trung gian Tiểu Tạ hựu thanh phát.
Câu hoài dật hứng tráng tứ phi,
Dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt.
Trừu đao đoạn thuỷ thuỷ cánh lưu,
Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu.
Nhân sinh tại thế bất xứng ý,
Minh triêu tán phát lộng biên chu.

 

(*) Cốt cách Kiến An ý muốn nói đến Kiến An thất tử, các đại diện của văn chương Kiến An.

(**) Có lẽ là ám chỉ Tạ Diễu.

 

Thần huyền khúc – Lý Hạ

Chiều xuống non tây, thẫm non đông Gió thốc ngựa phi vó mây tung Đàn thanh sáo trắng âm huyên náo Quần hoa sột soạt lớp phong trần Lao xao rừng quế hoa rơi rụng Lệ huyết linh miêu lạnh xác hồ Cù long uốn đuôi tường vách cũ Thần mưa nhẹ cưỡi lội đầm thu Cú già trăm tuổi thành tinh mộc Lửa xanh lét ổ vẳng cười vang.   Bản Hán Việt: Tây sơn nhật mộ đông sơn hôn Đoàn phong xuy mã,

Hữu sở tư – Lý Hạ

Năm cũ bên đường hát biệt ly Hôm nay đất Thục người vẫn đi Tháng hai bên rèm hoa đùa gió Trước thềm ngàn dặm trúc lâm li Tiếng đàn như lòng thiếp Đứt nối hết đêm này Nhớ chàng ngựa trắng mang cung gỗ Nơi đâu mà chẳng gió xuân bay? Lòng chàng há nặng như đá tảng Thân thiếp nào mãi vẻ hồng hoa. Trời biếc sông xa ngang đêm tàn Sóng bạc đầu cuộn chẳng cầu sang. Gió Tây chưa thổi sầu

Bồ tát man – Lý Bạch

Rừng xa tịch mịch lụa mây vờn Núi trơ một dải rợn thê lương Lầu cao bóng chiều buông Trên lầu người buồn thương Thềm ngọc hoài trông ngóng Về tổ chim chiều liệng Về nhà đường nơi đâu Đình lại quán nối nhau. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Bình lâm mạc mạc yên như chức, Hàn san nhất đới thương tâm bích. Minh sắc nhập cao lâu, Hữu nhân lâu thượng sầu. Ngọc giai không trữ lập, Túc điểu quy phi cấp.

Lậu thất minh – Lưu Vũ Tích

Núi nào bởi cao, tiên ở thành danh Nước nào tại sâu, rồng ngụ mà linh Gian nhà quê mùa, đức vang tiếng lành Biếc thềm vệt rêu phủ, rèm thưa cỏ chìm xanh Bậc túc nho cười nói, phường tục tử bặt thanh Khẽ gảy cây đàn mộc, tụng Kim cang Chẳng đàn sáo để bận tai, không án thư mà nhọc mình Nam Dương có lều cỏ, Tây Thục có nguyên đình (*) Khổng Tử hỏi: “Có chi mà quê mùa?” Hà Thủy

Lạc hoa – Lý Thương Ẩn

Lầu cao khách xa rồi Góc vườn hoa tả tơi Lưa thưa đường uốn khúc Tiễn bóng chiều xa xôi Thương tâm nào nỡ quét Trông cảnh lại ngóng người Nỗi lòng ngày xuân cạn Đẫm lệ áo này thôi Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Cao các khách cánh khứ, Tiểu viên hoa loạn phi. Sâm si liên khúc mạch, Điều đệ tống tà huy. Trường đoạn vị nhẫn tảo, Nhãn xuyên nhưng dục quy. Phương tâm hướng xuân tận, Sở đắc thị