Home Đọc Sách Đọc Nhanh Những vần thơ “Tịnh khẩu” của Nguyễn Đức Sơn

Những vần thơ “Tịnh khẩu” của Nguyễn Đức Sơn

Sau khi quay cuồng trong ngồn ngộn bản thảo với những dòng văn tự đầy lý trí của triết học và chính trị, tôi cần một cái gì đó điên rồ phi lý trí… như Thơ. Nhiều khi nghĩ đi lại về việc tại sao người đương đại bây giờ không thích đọc thơ để giải tỏa, tôi thường chọn cách giải thích chung chung để đổ lỗi cho hệ thống giáo dục, kinh tế và Internet. Cũng không thể đổ lỗi cho các nhà thơ bây giờ quá xa rời cuộc sống, họ vẫn vậy thôi, chỉ là cuộc sống rời xa họ. Từ trải nghiệm cá nhân những lần tìm kiếm đến thơ của tôi, tôi nhận ra rằng, có vẻ như Thơ là liệu pháp hiệu quả sau một thời gian chìm đắm với các công việc đòi hỏi Lý trí cao.

Trong trạng thái Lý trí, với các nguyên tắc và quy củ, buộc não trạng của chúng ta phải tự đóng khung mình. Và Thơ với sự phi lý trí điên rồ của ngôn từ, những dòng cảm hứng bất tận miên man, trạng thái vô trật tự bất định, ở khía cạnh bất toàn của tâm trí… đã thực sự giúp tôi đào tẩu khỏi cái khung ấy. Nhưng xã hội ngày nay, người ta vốn đã sống quá phi lý trí. Thế nên, thứ giải tỏa của họ đơn giản là được giải phóng trạng thái phi lý trí ấy thông qua hành động. Những cái khung méo mó, giả dối và lỏng lẻo của một xã hội mất trật tự bị thúc đẩy bởi Tham – Sân – Si khiến Thơ bỗng nhiên trở thành một thứ gì đó hoàn toàn bí ẩn, nghiêm cẩn, mà thực ra thì Thơ không phải như thế.

Thơ là hành trình phá chấp của mỗi người viết, giống như Nguyễn Gia Thiều viết thơ để thoát khỏi địa vị và trách nhiệm của một quan đô úy. Hay Vũ Hoàng Chương say thơ để tách bản thân khỏi nghiệp vụ luật sư thuần túy duy lý. Bậc tu luyện như Sufi mỗi khi chứng đắc và thăng hoa thì cất lên các khúc thơ, các thiền giả cũng đột ngột cất lên các bài kệ… Và vì thế, Thơ là sự nới rộng trạng thái tâm trí.

Tôi lại gặp được yếu tố này trong thơ của Nguyễn Đức Sơn qua tập thơ “Tịnh Khẩu” của ông:

“Khi ngộ nhận chồng chất tràn lan

Là lúc trăng tan

Vào miền hiu quạnh tuyệt vời nhất”

Trước đây, khi đọc thơ của các kỳ nhân của Việt Nam Cộng Hòa, tôi chỉ có thể gật gù: “Rằng hay thì thật là hay”, nhưng mà đọc ra thì chẳng sướng. Bùi Giáng tưởng mình là trí tuệ điên, thực ra là trí tuệ quá hóa điên để giải độc trí tuệ. Tô Thùy Yên dù lực thơ mạnh mẽ nhưng không khác biệt với Đinh Hùng, Bích Khê, Hàn Mạc Tử. Thanh Tâm Tuyền thì lạ, mà cõi giới thơ lại một màu. Phạm Công Thiện tuy ngáo nhưng chẳng qua cũng chỉ là cái ngáo của một cậu học sinh triết học lạc lối giữa hố thẳm tư tưởng… Kể ra còn không vui bằng đọc thơ Nguyễn Tất Nhiên với phong thái của “người linh mục giảng lời tình nhân gian” sẵn sàng “thiêu đổ lầu chuông”.

Nhưng với Nguyễn Đức Sơn thì khác. Thơ ông vừa có hơi hướng của các bài haiku, vừa mạnh mẽ chẳng thua các bài Rubayyat của Omar Khayyam, mà vẫn có cái màu sắc điên phá chấp của một người tu trên con đường trí tuệ điên. Ngôn từ không cầu kỳ, nội dung trực chỉ nhân tâm. Dâm và Tục trong thơ ông chẳng phân định và cũng chẳng cần đố tục giảng thanh hay giảng thanh đố tục, mà chỉ đơn giản là thấu rõ lẽ âm dương nơi hiện hữu và chấp nhận tính nhị nguyên ấy.

“Chiến tranh kéo dài hay không kéo dài

Em cũng rách làm hai

Từ vạn kiếp”

Điều thú vị nữa đó là Nguyễn Đức Sơn nhận thức rằng hiện hữu của con người nơi Trái Đất, dù tử dù sinh thì cũng đều là Ma cả. Tất cả chúng ta đều chỉ là bóng mờ thoắt ẩn thoắt hiện giữa thế gian.

“Thì ra

Ta vốn là ma”

Thực sự, tôi nghĩ rằng thơ Nguyễn Đức Sơn không dành cho các nhà thơ hay các nhà phê bình nghệ thuật, mà dành cho những người đang tu giữa thế gian. Xin mượn bài thơ này của ông để kết lại đoạn cảm hứng ngắn ngủi này:

“THẬT VẬY

Không bám sát đời sống

Đừng mong bám sát được thiên cổ

Cực thấy mồ”

Tym Biu Đinh – Đừng hành xác nhau, đôi khi chỉ cần nhẹ nhàng thư giãn vậy thôi

Cứ mỗi đợt hè đến hoặc các dịp nghỉ lễ, các công ty lại biến kỳ nghỉ của nhân viên thành một thứ Tim Biu Đinh (teambuilding), mà có lẽ không ít nhân viên cảm thấy bức xúc, khó chịu vì các trải nghiệm tồi tệ của các hoạt động như vậy. Những trò hành xác, động chân động tay, hô khẩu hiệu, nhảy nhót tưng tưng như lũ dở hơi là hình ảnh quen thuộc trong các cuộc Tim Biu Đinh của đại đa

Bóng mơ

Trầm miên mưa phủ rũ mây Bước ma đi vết phủ đầy Đìu hiu gió U u Ngón dài luồn vai ai Tóc lả lơi hàng quán Màn kính mờ Sương mơ Thân này đã nhạt rượu chưa Mà mưa vương đầy hồn úa Thần này đã tỉnh mơ chưa Mà mây giăng khắp thơ rồi Bước mùa trôi vội vã Thanh xuân vuột tay rơi Sợi buồn một vệt phác Trong bóng tóc ai soi Hà Thủy Nguyên Tỉnh giấc mà như chưa tỉnh

ĐÊM TRĂNG HÓA THẠCH

Ấy ai che mặt mùa thu trước Có lại gần đây trong thinh không Có nghe đêm lạnh đang hổn hển Cùng vén rèm trăng lộ điệu tình   Ấy tóc xõa ngang bờ vai thõng Ân ái cố cung nửa vẹn toàn Ly rượu láng lênh bờ thực tại Hợp cẩn luân hồi, tình nhập trăng   Nhoẻn nửa miệng cười, trăng ấy trăng Ứa nhựa phiêu linh đến cõi hồn Âm linh lảo đảo say tình mới Nghĩa địa trầm tư, ma họa

Bồ tát man – Lý Thanh Chiếu

Kỳ 1 Gió thoảng nắng phai xuân vừa hé Vừa thay áo mới lòng thanh nhẹ Chớm tỉnh thấy khí hàn Tóc mai vương nét tàn Cố hương nơi nào thế Chỉ say mới tạm quên Trầm hương nằm đợi cháy Hương tan rượu nào say. Kỳ 3: Ngỗng về kêu xé nát mây xanh Ngoài cửa tuyết buông lư khói tỏa Đèn rọi ánh phượng thoa Thoa cài chỉ qua loa Tiếng tù giục trời sáng Ngưu Đẩu cùng chiếu rạng Lòng xuân hoa

Nhảm #21: Quằn quại

Quằn quại không có nghĩa là sâu sắc. Đó là trạng thái của những con sâu bị xéo tới mức ngoài quằn ra thì chẳng còn có thể làm gì khác. Tội nghiệp lũ sâu bất lực. Thích thú chiêm ngưỡng sự quằn quại lại càng không phải là sâu sắc. Đó là thú vui bệnh hoạn. Đó thậm chí còn không phải đồng cảm và thấu hiểu, mà là sự đói khát quằn quại của những con sâu chẳng bao giờ được ai để