Home Dịch thuật Dịch thơ Tương tiến tửu – Lý Bạch

Tương tiến tửu – Lý Bạch

“Thương tiến tửu” là bài thơ nổi tiếng nhất của Lý Bạch, đại diện cho tinh thần say và tư tưởng nhân sinh của ông. Bài thơ này đã đi theo những năm tháng thanh xuân nông nổi nhất của đời tôi, và cứ thỉnh thoảng những câu thơ vẫn vọng trong tâm trí ngăn tôi khỏi những cuồng vọng.

Năm 2018, tôi đã dịch bài thơ này, và hôm nay, một ngày xuân 2024, tôi ngồi chuốt lại câu từ và gieo vần, để ngâm ngợi và cũng để nhắc mình.

Người chẳng thấy:
Hoàng Hà trời cao tuôn dài mãi
Mải mê tới biển nào quay lại.
Không thấy ư:
Phụ mẫu soi gương sầu bạc tóc,
Sáng mới biếc xanh, chiều thành tuyết.
Nhân sinh thỏa lòng cứ vui thôi
Chớ để chén vàng khô ánh nguyệt!
Trời sinh có tài tất hữu dụng,
Ngàn vàng tiêu cạn lại quay về.
Mổ dê xẻ ngựa cứ vui đi,
Ba trăm li này có hề gì.
Này thầy Sầm,
Này Đan Khâu,
Uống thôi nào
Chớ ngưng ly!
Vì người ca một khúc,
Người cũng vì ta hãy lắng nghe:
“Chuông trống cỗ bàn có là gì,
Chỉ nguyện say hoài không màng tỉnh!
Xưa nay thánh hiền đều hiu quạnh
Chỉ phường uống rượu mới lưu danh.
Trần vương mở yến hội Bình Lạc (*)
Vạn vò rượu quý tha hồ vui.”
Cớ gì ông chủ than tiền ít,
Cứ đãi rượu ngon mời bạn say.
Ngựa ngũ sắc
Áo ngàn vàng
Tiểu đồng mang đổi ra mỹ tửu
Ta lại cùng say vạn cổ sầu.

(*) Tức Tào Thực. Trong bài Danh đô thiên 名都篇 của Tào Thực có câu: “Quy lai yến Bình Lạc, Mỹ tửu đẩu thập thiên”, tức trở về quán Bình Lạc mở tiệc rượu vạn vò.

Bản Hán Việt

Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Hựu bất kiến:
Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai.
Phanh dương tể ngưu thả vi lạc,
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi.
Sầm phu tử,
Đan Khâu sinh.
Thương tiến tửu,
Bôi mạc đình!
Dữ quân ca nhất khúc,
Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính:
“Chung cổ soạn ngọc bất túc quý,
Đãn nguyện trường tuý bất nguyện tỉnh!
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh.
Trần vương tích thời yến Bình Lạc,
Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước”.
Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền,
Kính tu cô thủ đối quân chước.
Ngũ hoa mã,
Thiên kim cừu,
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.

Bồ tát man – Lý Bạch

Rừng xa tịch mịch lụa mây vờn Núi trơ một dải rợn thê lương Lầu cao bóng chiều buông Trên lầu người buồn thương Thềm ngọc hoài trông ngóng Về tổ chim chiều liệng Về nhà đường nơi đâu Đình lại quán nối nhau. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Bình lâm mạc mạc yên như chức, Hàn san nhất đới thương tâm bích. Minh sắc nhập cao lâu, Hữu nhân lâu thượng sầu. Ngọc giai không trữ lập, Túc điểu quy phi cấp.

Hiệp khách hành – Lý Bạch

Khách Triệu dải mũ lay Gươm Ngô sương tuyết rọi (*) Bạch mã yên ánh bạc, Lấp loáng tựa sao bay. Mười bước thêm kẻ chết, Vạn dặm làm chi đây. (**) Việc xong bèn phất áo Ẩn kín thân danh này. Nhàn đến Tín Lăng chơi, Buông kiếm nhập cuộc say. Chu Hơi này chả nướng Hầu Doanh chén rượu đây. Ba chén cạn xá chi Ngũ Nhạc nhẹ như mây. Tai bập bùng hoa mắt, Ý khí sắc tỏa dày. Chùy vàng vung

Lậu thất minh – Lưu Vũ Tích

Núi nào bởi cao, tiên ở thành danh Nước nào tại sâu, rồng ngụ mà linh Gian nhà quê mùa, đức vang tiếng lành Biếc thềm vệt rêu phủ, rèm thưa cỏ chìm xanh Bậc túc nho cười nói, phường tục tử bặt thanh Khẽ gảy cây đàn mộc, tụng Kim cang Chẳng đàn sáo để bận tai, không án thư mà nhọc mình Nam Dương có lều cỏ, Tây Thục có nguyên đình (*) Khổng Tử hỏi: “Có chi mà quê mùa?” Hà Thủy

Lạc hoa – Lý Thương Ẩn

Lầu cao khách xa rồi Góc vườn hoa tả tơi Lưa thưa đường uốn khúc Tiễn bóng chiều xa xôi Thương tâm nào nỡ quét Trông cảnh lại ngóng người Nỗi lòng ngày xuân cạn Đẫm lệ áo này thôi Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Cao các khách cánh khứ, Tiểu viên hoa loạn phi. Sâm si liên khúc mạch, Điều đệ tống tà huy. Trường đoạn vị nhẫn tảo, Nhãn xuyên nhưng dục quy. Phương tâm hướng xuân tận, Sở đắc thị

Xuân nhật túy khởi ngôn chí – Lý Bạch

Xuân, người ta phải vui, vì mùa xuân kỳ thực rất buồn, bởi xuân là khoảng thời gian con người liên tục đối diện với hư vô và suy vong. Thu là đối diện với úa tàn, đông là sự đìu hinh cô quạnh, nhưng xuân là lúc những cái cũ đã thực sự kết thúc và cái mới đến trong một cảm thức mơ hồ về lụi tàn sắp sửa. Mở lại những trang thơ Lý Bạch mà tôi đã dịch cách đây mấy