Home 2017 / page 9

Long Điểu truyện – Chương mở: Đất thiêng

Lịch sử không ghi lại câu chuyện này, thần thoại không người kể lại, thế nhưng những gì đã xảy ra sẽ không thể bị xóa. Nhân loại có thể quên, nhưng có những nỗi đau không thể phai mờ, có những giây phút thống khoái không thể tan biến. Bởi thế, thời đại này, câu chuyện này vẫn cần ai đó kể lại. Kẻ không biết có thể coi đó là huyễn mộng. Người biết sẽ nhận ra mình giữa trùng trùng kiếp kiếp.

Câu chuyện diễn ra ở một quốc đảo phương Bắc xa xôi, bốn bề bị sương mù vây kín. Có thể nói đó là một thế giới riêng cách biệt với bóng tối đang bao phủ khắp Trái Đất. Chẳng ai biết bên ngoài quốc đảo ấy chuyện gì đã xảy ra. Cũng chẳng ai biết khi nào những lớp sương mù sẽ tan biến.

Từ lâu rất lâu, khi các vị chiến thần còn ngự trị thế giới với sức mạnh vô biên, trí tuệ siêu phàm và sự bất tử, một cuộc lật đổ đã diễn ra. Đó là cuộc lật đổ của các vị thần mong muốn duy trì hòa bình, trật tự vĩnh viễn. Các vị chiến thần đã thất bại bởi bị những kẻ lật đổ sử dụng ma thuật, tiêu diệt khả năng bất tử.  Mỗi lần thân xác của họ chết đi, họ lại đầu thai vào một số phận mới và quên hết quá khứ huy hoàng cũng như thảm bại đau thương. Họ bị đầy đến quốc đảo phương Bắc xa xôi ấy. Tại đây, họ chia nhau sở hữu và cai trị quốc đảo. Những vị thần có cánh ở phía Bắc hiểm trở lập nên Điểu tộc. Những vị thần mình rồng mạnh mẽ ở phía Nam trù phú lập nên Long tộc. Một số vị thần có hình thù khác, sống rải rác và yên ổn trên cả đất của Điểu tộc và Long tộc. Thế nhưng, họ bị những kẻ chiến thắng xóa hết ký ức về vị thế vĩ đại của họ xưa kia. Đảo quốc ấy được đặt tên là Minh Quốc.

Các vị thần hòa bình đã chiếm thế giới, nhưng bản thân họ không đủ tài trí để gây dựng nên một thời đại thái bình, thịnh trị. Triều đại lý tưởng của họ là thần dân không ai được vượt trội, không ai được sống một đời sống cá nhân, không ai được mơ mộng, không ai được giữ ký ức của mình, không ai được bất tử. Từ các vị thần cai trị đến các thần dân, ai ai cũng sống và làm việc theo trật tự và cố sức để duy trì hòa bình. Mọi bất bình thường sẽ bị tiêu diệt. Thế là, cả ngàn năm trôi qua, con đàn cháu đống của họ cứ nhân lên, nhân lên mãi. Thế giới trở nên nhơ bẩn và chật chội. Cho đến một ngày chính họ bị hủy diệt bởi các tai họa và bệnh dịch. Nhóm thủ lĩnh của các vị thần hòa bình cùng nhau chạy về phía ánh sáng duy nhất còn đang le lói trên thế giới: Minh Quốc.

Các vị thần hòa bình đổ bộ lên bờ Tây Minh Quốc. Lúc này, Điểu tộc và Long tộc đang rất phồn thịnh. Các vị thần hòa bình đã quen làm kẻ thống trị, không chấp nhận làm con dân dưới trướng phe bại trận, họ tìm mọi cách để lật đổ Điểu tộc và Long tộc. Họ nghĩ ra trăm phương ngàn kế khiến hai tộc lớn này hiểu lầm, mâu thuẫn nhau, dẫn đến chiến tranh. Thừa cơ, họ nổi dậy, chiếm phía Tây Minh quốc và lập ra Dã quốc. Nhiều vị chiến thần chán ghét cuộc chiến của Long tộc và Điểu tộc cũng chạy sang Dã quốc những mong có một cuộc sống an ổn. Nhiều thế hệ thần trôi qua, Long tộc và Điểu tộc vẫn tiếp tục giao tranh và Dã quốc vẫn tiếp tục lớn mạnh…

Câu chuyện các bạn sắp được biết tới kể về thời kỳ đỉnh điểm giao tranh giữa Long tộc và Điểu tộc và Dã quốc đã lộ rõ âm mưu thôn tính, chiếm đoạt toàn bộ lãnh thổ Minh quốc. Nhưng trước khi vào chuyện, các bạn nên biết về địa thế của đảo quốc này và cách  cai trị của từng thế lực.

Ngăn giữa lãnh thổ Dã quốc và Minh quốc là dãy Đại Sơn hùng vĩ, quanh năm tuyết phủ, tựa như một tòa thành tự nhiên kiên cố. Quân Dã quốc không dễ xâm nhập qua núi Đại Sơn bởi Điểu tộc và Long tộc có đủ chiêu trò phòng bố để tiêu diệt bất cứ ai xâm nhập. Dù không đối đầu trực tiếp với Dã quốc nhưng hai tộc này vẫn luôn đề phòng cảnh giác với những kẻ đã chiếm đất của Minh quốc này. Dã quốc trở thành vùng đất hứa cho những phạm tội bỏ trốn, còn dãy Đại Sơn trở thành nơi ở ẩn cho những ai chán ngán cuộc đua tranh muốn buông tay đối mặt với vô cùng.

Dã quốc trong nhiều năm đã xây dựng một tòa thành kiên cố bọc thép và đồng đen nối dài liên tục dọc dãy Đại Sơn và ôm trọn lãnh thổ. Nhà cửa, lâu đài đều được làm bằng thép. Từ Dã vương đến quan lại đều mặc giáp sắt, dân thường mặc chung một màu áo nâu sẫm. Người dân ai ai cũng được dậy rằng phải kinh sợ người Điểu tộc, Long tộc, bởi họ là những kẻ đại hung ác. Thế là, từ quan đến dân Dã quốc, ai cũng một lòng tiêu diệt Điểu tộc và Long tộc. Những vị thần lưu vong đến đây, dần dần cũng bị cách suy nghĩ này ảnh hưởng, lại trở thành tay sai đắc lực dưới trướng Dã vương, phục vụ để bảo vệ sự thái bình, thịnh trị của Dã quốc.

Điểu tộc cai trị một dải núi non sông suối trùng điệp ở phương Bắc, tự cho mình là thanh cao quý phái như băng tuyết. Những tộc khác cũng có thể sung sống ở đất của Điểu tộc nhưng không được triều đình trọng dụng, chỉ mãi là kẻ nô bộc phục vụ trong các vương phủ mà thôi. Hoàng cung và các vương phủ đều ở trên đỉnh núi cao vút. Với họ, người càng trên cao thì càng giữ được thanh khí. Nhưng quan trọng hơn hết, Hoàng cung và các vương phủ là nơi cất giấu các bí thuật và bảo khí, không thể để cho người thường dễ dàng xâm nhập được.

Phương Nam do Long tộc cai trị. Người trong Long tộc đều mang họ Long và cũng nắm quyền bính độc tôn ở triều đình. Nhưng Long tộc không e ngại tuyển lựa nhân tài từ những tộc mà họ cho là thấp kém hơn. Nhờ vậy, quân đội của Long tộc hùng mạnh lại càng hùng mạnh, dân chúng sống no ấm lại càng no ấm. Hoàng cung và các vương phủ của Long tộc không nằm trên mặt đất mà nằm sâu dưới đất, men theo các mạch nước ngầm đổ ra sông. Mạch nước ngầm là dòng chảy năng lượng nuôi dưỡng cơ thể năng lượng của Long tộc, nên quan trọng hơn hết, họ phải gìn giữ những mạch nước này.

Long tộc – Điểu tộc – Dã quốc giao tranh với nhau đã được 200 năm, người chết vô số, đau đớn chất chồng. Cuộc chiến này cứ như thể không bao giờ chấm dứt. Lúc bấy giờ, Chúc Thịnh Lai, một vị tướng của Dã Quốc đã nổi dậy, chiếm cứ một vùng núi ở phía Bắc dãy Đại Sơn nghìn năm băng tuyết. Chúc Thịnh Lai một lòng nuôi chí thống nhất ba vùng Long – Điểu – Dã, chấm dứt cuộc chiến 200 năm đen tối chẳng có gì khác ngoài máu chảy đầu rơi, phân ly biện biệt.

Chúc Thịnh Lai luyện được bộ Thần Cơ công pháp, không phải do hấp thụ linh khí mà thành, mà do lấy năng lượng của kẻ địch, cấu trúc lại theo cách mình muốn và dùng chính năng lượng ấy để tiêu diệt địch. Thần Cơ công pháp giúp Chúc Thịnh Lai đánh thắng được mọi địch thủ một cách dễ dàng. Cũng nhờ chính Thần Cơ công pháp này, Thịnh Lai chiếm được một vùng núi nhờ vào việc biến chính bức tường năng lượng kết giới trên dãy Đại Sơn do Điểu tộc dựng nên làm thành vòng bảo vệ cho nghĩa quân của mình. Nghĩa quân của Chúc Thịnh Lai ngày càng lớn mạnh, nhiều hoàng tộc học Điểu và họ Long cũng lén lút tham gia, nhiều nhân tài ẩn dật cũng quy tụ về dưới trướng. Thế thắng như vũ bão, tung hoành nhiều năm chốn tuyết sơn, dãi nắng dầu mưa giương sức chống lại cả Dã quốc, Điểu tộc và Long tộc.

Hà Thủy Nguyên

Đọc các chương của Long Điểu truyện tại đây: https://hathuynguyen.com/tag/long-dieu-truyen/

Home 2017 / page 9

Ru kiểu mới

À ơi

Ơi à

 

1

Đạo – Lạo Xạo

Đời – Ngôi Blời

 

Bến giác xa xăm

Hố rác trước mặt

Giác vô ảnh

Rác đa sắc

Lạc giữa hư vô ai gọi ai về

 

2

Thơ – Nói Mơ

Đương Đại – Điên Dại

 

Cái đẹp suy tàn

Thói đời hẹp lượng

Nhấp ngụm ảo, trời quang mây tạnh

Tỉnh hơi men, trăng lặn sao mờ

Màu hư thực, ai người thấu rõ

 

3

Chính – Minh Tinh

Tà – Tha Ma

 

Tanh bẩn phô trương

Phấn vương nhớp nhúa

Soi gương mặt đen, mặt trắng

Điểm trang sao cho lộ được chân tâm

 

4

Não Bộ – Khai Trí

Luân Xa – Khai Mở

Hư Vô – Khai Sáng

Tất Thảy – Khai Mù

 

Ai ơi ở cõi u minh

Véo von câu hát cổ

Ru nhân loại ngủ yên

Ru trái đất tan tành

Ru vạn thế tái hồi

Ru ta mờ cơn giận

 

5

Ta lang thang đôi bờ

Nhặt nhạnh đôi vần thơ

Phủi bụi thời gian

Tẩy màu ô uế

Vọng tha nhân kẻ đoái người hoài

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 9

Thị trường sách Việt Nam (4): Giá sách hiện nay có đắt không?

Đọc chùm bài “Thị trường sách Việt Nam” tại đây: https://hathuynguyen.com/tag/thi-truong-sach-viet-nam/

Nhiều người cho rằng giá sách trên thị trường hiện nay vẫn còn quá đắt và đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng độc giả khó khăn trong việc tiếp cận tri thức. Đắt – rẻ tưởng như là một vấn đề mang tính định lượng, thế nhưng, nó lại là vấn đề tâm lý. Người chê đắt, người khen rẻ ít khi dựa trên những tính toán bằng con số mà dựa trên tình trạng của bản thân. Ở bài viết này, tôi sẽ làm rõ vấn đề “đắt – rẻ” của giá sách, để các bạn đọc có cái nhìn đúng đắn hơn và tìm cho mình những lựa chọn phù hợp.

Vào một ngày đẹp trời, bạn đi ra mua sách với 300 ngàn trong ví, cầm cuốn sách có giá trên 100 ngàn, bạn hẳn sẽ cho rằng cuốn sách ấy đắt. Do đó, bạn sẽ phải đắn đo và chọn các phương án rẻ hơn hoặc tìm các lựa chọn giảm giá. Thế nhưng, nếu bạn có 3 triệu trong ví, việc bỏ ra 100 ngàn để mua sách không phải là việc quá khó khăn với những ai thực sự yêu sách, thực sự muốn nâng cao nhận thức của mình. Thế nên, tình trạng túi tiền của bạn là một trong các yếu tố quyết định đến phán quyết rằng sách đắt hay rẻ đối với bạn.

Đương nhiên, một cuốn sách không ăn được cũng không nuôi sống được người đọc (trừ phi anh ta bán nó cho hàng sách cũ), thế nên sách trở nên không thiết thực đối với những ai thực dụng và coi đồng tiền hơn những điều khác. Khi đem sách lên bàn cân rằng “có hữu dụng” hay không thì đa số các cuốn sách đều có thể bị coi là “đắt”. Bởi vì, sách đôi khi không mang tính giải trí như chơi tàu lượn siêu tốc cũng không làm no bụng chúng ta như một suất cơm văn phòng. Do đó, nếu sách vượt quá 100 ngàn, thì nó có thể trở thành một khoản không đáng để chi. Thế nhưng, với những người coi trọng sách hơn miếng ăn hay những trò giải trí khác, thì với cái giá ấy vẫn có thể chấp nhận được, thậm chí khi tính ra vẫn còn là rẻ.

Người đọc Việt Nam hiện nay vẫn còn đọc sách theo kiểu đếm chữ ăn tiền, tức là sách mà dày hoặc chữ kín đặc thì đáng để bỏ tiền ra mua, còn những sách mỏng hơn mà bằng giá thì họ sẽ không mua. Có lần tôi đã chứng kiến một bạn đến mua sách ở chỗ tôi. Bạn ấy đến và hỏi mua cuốn “Giọt rừng” của Mikhail Prisvin. Đó là một cuốn sách rất hay mà tôi nhiều lần giới thiệu trên facebook. Bạn ấy lật từng trang, từng trang và nhận xét rằng: “Sao quyển này ít chữ thế”, rồi đặt lại quyển sách trên giá. Sau đó, bạn ấy quyết định mua cuốn “Nước Mỹ nhìn từ bên trong” của Donald Trump.

Đó là những lối suy nghĩ thường gặp dẫn đến việc người đọc đánh giá một cuốn sách là “đắt” hay “rẻ”. Thế nhưng, trên thực tế, nếu thử định lượng, ta sẽ thấy rằng trong một số trường hợp sách rất đắt so với giá trị của nó nhưng ở trường hợp khác thì sách lại rất rẻ.

Tôi đã từng thử tự in một tập sách dày 150 trang, giấy đẹp và chất lượng mực tốt, in 300 bản và bán ra thị trường với giá 85.000/quyển. Các khoản tôi phải chi bao gồm:

  • Xin giấy phép: 1.500.000
  • Thiết kế bìa + dàn trang: 500.000
  • Tiền in và đóng 300 bản sách: 5.000.000
  • Nhuận bút: 2.500.000
  • Truyền thông: 2.000.000
  • 20 cuốn nộp lưu chiểu: 340.000

Như vậy, tổng số tiền phải chi là: 11.840.000. Trong trường hợp 300 bản sách đều được bán hết thì số tiền tôi thu về là 25.500.000 đồng. Như vậy, tôi chỉ lãi hơn gấp đôi một chút. Tuy nhiên, thực tế kinh doanh không tốt đẹp như vậy vì thường người đọc chỉ mua rải rác, rả rích cả năm trời, có khi là 2 năm.

Tôi đã thử làm ở quy mô nhỏ như vậy. Còn các nhà sách thì sao? Họ còn phải trả tiền thuế, trả lương cho nhân viên, tiền thuê văn phòng, tiền biên tập, chi phí phát hành, tiền bản quyền (đối với sách dịch) …v…v… Và như thế để các bạn nhìn thấy rằng số tiền bạn mua một cuốn sách với giá 100 ngàn cho đến 300 ngàn với những cuốn có độ dày từ 300 đến 500 trang không phải là một cái giá quá đắt.

Ngoài ra, nếu bạn thử so sánh giá một cuốn sách với rất nhiều những khoản chi khác của chúng ta, các bạn sẽ thấy rằng chúng vẫn còn quá rẻ. Uống một cốc Ding Tea trong vòng 30 phút bạn có thể mất đến 50 ngàn, bằng một nửa một cuốn sách mà ai đó chê đắt. Đi xem phim mất 2 tiếng ở CGV cũng có thể lên tới 210.000/vé (phim hot) hoặc rẻ hơn cũng phải 90 ngàn đối với phim thường, ngang ngửa một cuốn sách thuộc loại dày. Vào công viên chơi các trò chơi chưa đến 1 phút/trò, bạn có thể mất từ 20 -40 ngàn/trò… Tóm lại, bạn có thể có rất nhiều các khoản chi bất hợp lý và vứt tiền vào hư vô nhưng lại tiếc tiền khi mua một cuốn sách.

Đương nhiên, với những bạn sinh viên nghèo mong muốn học hỏi, họ không có nhiều cơ hội cho các khoản chi bất hợp lý và cũng không có nhiều cơ hội để mua những cuốn sách mà họ cho là đắt tiền. Thế nhưng, có rất nhiều lựa chọn cho họ. Họ có thể đi làm thêm ở những quán café sách để được đọc sách. Tôi đã thấy những bạn sinh viên như vậy ở Trung tâm Văn hóa Đông Tây, ở Ngọc Tước Book Café – Vũng Tàu. Hoặc nếu không có cơ hội, các bạn có thể đăng ký thẻ thư viện của trường, hoặc thậm chí là Thư viện Quốc gia hay Thư viện thành phố. Và đừng vội chê rằng những cuốn sách trong đó lỗi thời. Bạn đã thử lục lọi đủ chưa? Hồi bé khi chưa kiếm ra tiền, tôi vẫn đọc sách ở thư viện và đặt chỉ tiêu cho mình rằng đọc hết những cuốn tiểu thuyết và những sách lịch sử trong đó. Nếu bạn chịu khó loay hoay ở các thư viện này trong vòng 1 năm, bạn đã có thể giắt lưng một vốn kiến thức thuộc loại khá rồi. Những cuốn sách mới ra, bạn hoàn toàn có thể để dành tiền và mua. Thị trường sách Việt Nam, dù gì cũng không có nhiều quyển đáng để mang về giá sách đâu.

Sách có loại đọc một lần rồi bỏ, loại sách này mà bán với cái giá 100 – 300 ngàn với một cuốn 300 -500 trang là đắt. Sách loại này thường là những cuốn có nội dung quá tệ (viết sai ngữ pháp, lập luận kém, các thông tin cung cấp không chính xác), hoặc những cuốn người đọc dễ dàng nắm bắt được nội dung (có thể là sách kỹ năng hoặc sách giải trí như ngôn tình, kinh dị, truyện cười…v…v…). Thế nhưng, có những cuốn người đọc phải đọc đi đọc lại mới có thể hiểu hết ý nghĩa sâu sắc trong đó, hoặc phải tra cứu thông tin nhiều lần mà những thông tin ấy lại hữu dụng cho công việc hay sự nghiệp riêng, thì những cuốn 300 – 500 trang có mức giá từ 100 đến 300 ngàn vẫn có thể coi là rẻ. Những cuốn này, thậm chí cần phải có mức giá cao hơn nữa để tác giả và dịch giả nhận được những phần nhuận bút xứng đáng hơn, chứ không thể để họ đồng hạng với các cây bút thị trường. Bởi vì, để có được một cuốn sách hữu ích với nội dung thâm sâu như vậy, người viết hoặc người dịch cần phải làm việc nỗ lực trong một thời gian rất dài có thể là 1-2 năm, cũng có thể là 5-7 năm, cũng có thể là trả giá bằng cả cuộc đời. Và đương nhiên, những người hiểu giá trị của họ sẽ chẳng bao giờ tiếc tiền để mua một cuốn sách như vậy.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 9

Trăng xanh khép lại chợ chiều

Đốt một trời hoa bướm

Còn lại gì? Hư Không

Thắp một vầng trăng xanh

Thế gian cười điên loạn

 

Này kẻ xàm ngôn nơi đất chợ

Này kẻ đeo mặt nạ cứu nhân

Lảm nhảm điều chi? Léo nhéo những gi?

Này đạo, này tình

Tan trong trường lực

Ngôi lời tan tác

Ngộ lời thành rác

Rác tung dáo dác chợ chiều

 

Xanh xanh nguyệt quang

Mang mang hoa bướm

Chập chờn hư

Chập chờn không

Ai kẻ đoái hoài…

 

Rác và rác và rác

Cuốn trôi lại cuốn trôi

Ngộ lời giác ngộ

Rác ngộ lời rác ngộ

Vãn chợ rồi

Duy ngã độc thanh

Thanh thanh vầng nguyệt lạnh

Trống điểm vào canh…

 

Phất phơ hoa rụng

Bướm rải sắc xanh

Điệu cười man im bặt  giữa vô cùng

Lời tan rã

Thơ nồng men…

Home 2017 / page 9

Ma thuật của ngôn từ

“Hôm nay, tôi nhốt mình cả ngày trong căn phòng kín.” Đó là một câu trần thuật không thể xác định được thời gian. Hôm nay là hôm nào? Cả ngày là bắt đầu từ bao giờ và kết thức từ bao giờ? Thậm chí, đến không gian cũng không thể xác định. Căn phòng kín đến mức độ nào? Một căn hộ 5m2 cũng có thể gọi là kín, một tòa biệt thự cũng là một cấu trúc đóng kín, một đô thị cũng có tính khép kín… Và ngay cả thế giới mênh mông ngoài kia cũng là những bức tường vô hình giam hãm chúng ta.

Đừng phân tích câu, cũng đừng đỏi hỏi văn cảnh. Tôi chỉ đơn giản đang ở trong một căn phòng kín, vậy thôi, bạn có thể hiểu với nghĩa nào cũng được và thoải mái hình dung những tưởng tượng cho mình về không – thời gian của câu viết. Ngôn từ chỉ là những mật mã mà bạn có thể bừa phứa gán cho chúng những tưởng tượng và hình dung của mình bất chấp người ta cố gắng định nghĩa chúng một cách hệ thống và tử tế nhất có thể. Thế rồi, chính những ngôn từ bị nhào nặn theo bộ não hỗn loạn của chúng ta đến lượt nó lại quay trở lại ám chúng ta như những bóng ma lởn vởn. Những ngôn từ bị chúng ta nhào nặn ý nghĩa khi cố nuốt chúng, thẩm thấu chúng ấy, bỗng một ngày chiếm đoạt tâm trí của chúng ta. Chúng nén các ham muốn, nỗi sợ hãi, sự bần tiện, lòng ghen tức, sự độc ác… trong ta thành những khái niệm được đánh bóng mỹ miều như “tình yêu”, “lý tưởng”, “sự thấu cảm”, “khai sáng”, “từ thiện” …v…v… Và đến khi gặp cơ hội, ví dụ như một cơn lên đồng tập thể của đám đông hay một kẻ nào đó cần ta ban phát lời khuyên, những khái niệm ấy sẽ tự động bật lên trong não và khiến ta áp đặt tất cả những hình dung, tưởng tượng của mình lên thế giới.

Giả sử, khái niệm “thấu cảm” được một đám đông sử dụng. Thế nhưng, người A hiểu về “thấu cảm” khác người B và có thể rất khác tất cả những người khác. Mỗi người hiểu từ “thấu cảm” theo một nghĩa khác nhau vậy thì bên nào sẽ là kẻ được lợi? Chẳng phải là khái niệm “thấu cảm” ở dạng từ ngữ vô nghĩa là thứ được lợi ư? Càng tranh cãi, càng ca ngợi, khái niệm ấy càng giống một câu thần chú được lặp đi lặp lại (Mọi thần chú cứ phải vô nghĩa mới có độ lan truyền lớn). Thế còn sự “thấu cảm” đích thực, cái ý nghĩa nội tại của khái niệm ấy, một thứ cảm giác mơ hồ trong trái tim chúng ta khi trái tim bỗng nhiên thấu hiểu mọi nỗi đau và niềm hạnh phúc của người khác, bỗng trở nên mờ nhạt. Chúng ta thay thế ý nghĩa nội tại ấy bằng một thói xấu của chúng ta rồi gọt đẽo thói xấu ấy cho vừa khuôn khổ với khái niệm. Tương tự như vậy với những mỹ từ như “tình yêu”, “lý tưởng”, “khai sáng”, “từ thiện”… Ngay cả với những khái niệm tiêu cực như “cái ác”, “sự độc tài”, “sự vị kỷ”, “giết người hàng loạt”, “khủng bố”… chúng đều là những ngôn từ chứa đựng lời nguyền rủa, một tương lai tồi tệ mà điều xấu xa trong chúng ta dàn dựng nên để tiêu diệt những điều hay những kẻ mà ta không ưa hay ghét bỏ.

Càng sử dụng những ngôn từ mà chúng ta chưa có trải nghiệm, ta càng có xu hướng mạo hóa chúng. Càng mạo hóa chúng, ta càng đồng nhất ta với cái lốt nhân cách giả dối mà chúng ta đã xây dựng nên để chúng ta có thể sinh tồn trong xã hội. Câu hỏi lớn cần đặt ra ở đây: Tại sao con người và con người phải tương tác với nhau bằng những chiếc mặt nạ? Và tại sao những người càng đeo nhiều mặt nạ họ lại càng thành công trong cuộc sống? Đây là một đặc điểm khó hiểu của loài người và đôi khi vì lẽ ấy tôi không dám chắc những kẻ xung quanh mình còn là con người nữa.

Trong những chuỗi ngày giam mình trong căn phòng kín hơn 20m2 của tôi, tôi đã nghĩ về thực tại ở ngoài kia. Tôi nhốt mình bởi không còn thiên nhiên tuyệt đẹp và trong lành để tận hưởng. Tôi nhốt mình vì không muốn cười nói giả vờ với những kẻ đi ngang qua đời tôi mà tôi không bao giờ muốn ghi dấu của chúng trong tâm trí. Tôi nhốt mình bởi không thể chứng kiến với vở diễn tẻ nhạt của những khái niệm đang phơi bày ngoài kia. Tôi chứng kiến các khái niệm như một chuỗi vòng xoáy cuốn trôi chúng ta vào hư vô. Một ai đó thích nói về khái niệm đến mức biến bản thân mình thành khái niệm và khái niệm cứ lây lan trong tâm trí từng người, từng người… Thế rồi, thế giới bị nén lại thành những khái niệm.

Ngày qua ngày, các khái niệm nhào nặn thế giới bởi vòng xoáy của chúng. Bạn có thể thoát khỏi chúng ư? Trong khi bạn không thể thoát khỏi ngôn từ? Bạn vẫn cứ phải sử dụng ngôn từ theo cách này hay cách khác? Những cuốn từ điển được soạn ra  và những quy tắc ngôn ngữ được hình thành để duỗi thẳng vòng xoáy. Thế nhưng đám đông vẫn bất chấp từ điển. Đám đông hóng hớt những ngôn từ lạ tai hoặc thời thượng và bẻ quặt nghĩa của những từ được quy định theo ý mình. Theo thời gian, sự lố bịch ấy sẽ có trong từ điển. Đến lúc nào đó, chúng sẽ trở thành cách hiểu và cách sử dụng chính thống. Những chuẩn mực mà ta cho rằng nó là đúng đắn trong việc dùng từ, có thể đã từng rất lố bịch. Nếu ai đó hiểu lịch sử của một từ, sự ra đời và biến đổi của nó, người ấy chắc chỉ có thể cười khẩy. Người ta cười khẩy khi nhận ra rằng mình đã bị rơi vào vòng xoáy nhưng vòng xoáy vẫn không thể hủy hoại được tâm trí của họ.

Nhưng thế giới không phải chỉ có những ngôn từ dù ngôn từ đôi khi tuyệt đẹp trong cấu trúc hoàn hảo của thi ca và văn chương. Thế giới thực có trước ngôn từ. Ngôn từ chỉ là một cách mô phỏng thế giới ấy. Nếu chúng ta chỉ tư duy theo ngôn từ, có nghĩa chúng ta chỉ nhận thức thế giới qua một chuỗi mô phỏng. Nếu ta không trải nghiệm thế giới trước khi tư duy về nó qua sự mô phỏng, ta sẽ đem chuỗi mô phỏng ấy ra trở thành tiêu chuẩn để gọt đẽo thế giới theo cách ta thấy. Triết học, tôn giáo, giáo dục, tuyên truyền chính trị, truyền thông quảng cáo… đã phá hoại thế giới theo cách ấy. Nếu người ta ít nói hơn, ít bàn luận hơn, liệu thế giới có tốt đẹp hơn không? Tôi không chắc lắm. Đó là một khả năng chưa thể xảy ra, tức là ta chưa trải nghiệm nó, thế nên chưa nên gọi tên nó. Nếu tôi gọi tên nó, ma thuật hắc ám của ngôn từ sẽ được thực hiện.

Sẽ thế nào nếu cơ thể vật lý của con người không cần nữa? Con người chỉ như những tập hợp dữ liệu rời rạc và liên lạc với nhau qua các mã lệnh có tên “ngôn từ”? Đó thực sự là một “khải huyền”. Kinh Thánh nói “Khởi thủy là ngôn từ”, nhưng chúng ta biết rằng thế giới thật này sẽ vẫn vận hành dù có ngôn ngữ hay không. Trong khi ấy, ngôn từ lại có thể hủy hoại thế giới khi loài người sử dụng ngôn từ mà không hiểu nó và một khả năng về tương lai đang đến gần ”Ngôn từ là khải huyền”.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 9

Còn lại

Đánh dấu một chút vàng trong nắng

Đánh dấu một chút buồn trong mưa

Đánh dấu một nốt trầm trong bản thanh âm rộn rã…

 

Đôi cánh đã xa bay rồi

Chỉ tôi còn ở lại

Mỗi bước theo vết dấu lông chim

Ôi gió đã cuốn trôi tự kiếp nào?

 

Nắng tắt

Mưa ngừng

Mọi thanh âm im bặt

Một tiếng “suỵt” khẽ khàng

Hồi ức vô thanh nhỏ giọt

Thiên đường xé toạc thành những đám mây

 

Những phim đàn xô lệch

Xô nắng nấp trong mây

Xô mưa tan trong gió

Xô tôi chao đảo ngã khỏi tòa cao ốc

 

Đôi cánh đã bỏ đi rất xa

Có nghe chẳng?

Rất xa… xa… xa rồi…

Chỉ tôi còn ở lại…

Gom nắng, gom mưa

Thả rơi trên những phím đàn…

(2011)

*

Tập thơ Mùa Dã Cổ của Hà Thủy Nguyên
hiện có trên Hang Cáo.

Mời bạn tìm sách tại ĐÂY.

Home 2017 / page 9

KHẢI HUYỀN CA

Gom mây kết hư ảo

Lướt phím đàn tơ trăng

Rung rung bạch ngọc choáng

Cuộn hồn mơ đại phong

 

Lang thang vạn hồn cổ

Tan tác mệnh vô thường

Máu tuôn dòng thác lũ

Vẩn đô thành mây vương

 

Kìa bãi hoang cát thốc mờ

Tòa cấu trúc trơ trơ xương lạnh

Khói tử thi ngùn ngụt đô thành…

 

Tung cánh thiên thần, vong quốc tận

Gẩy đàn tiên hạc, cố nhân tiêu

Đáy cát lăn tròn miền thực tại

Vỡ rồi, vỡ rồi

Huyễn cảnh tàn…

 

Này kẻ lãnh chúa gánh địa cầu

Này ả lăng loàn thả lưới yêu

Này lũ mọt dân mùa hoang mọi

Này gã hận đời nhại thanh cao

Quằn xác thối

Huyết thủy dâng

Cát cuộn vệt hùng ca ầm ầm gió thốc

Chôn vùi nhơ bẩn xuống hư vô

 

Xoáy, xoáy, xoáy

Nuốt trọn đàn xác thối

Hủy chúng sinh về cát bụi đại hoang

Thiên thần khóc

Hạc tiên cười nhoẻn miệng

Hòa điệu chung cổ khúc Khải Huyền Ca

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 9

Dòng sông máu

Con sông cuộn đỏ máu ra biển Đông. Trong dòng chảy dữ dội để thanh tẩy máu của đất khỏi cơ thể, con sông không còn đủ thời gian cũng như tĩnh lặng để soi chiếu vẻ đẹp của mây trời, của hai bên thành phố, hay của những cây cầu bắc ngang trơ trơ sắt thép đã trở thành lich sử. Những xoáy nước được tạo ra như những cái bẫy lớn, sẵn sàng hút vào đó biết bao số phận. Các số phận ấy sẽ bị nghiền nát thành máu, thành một phần của màu đỏ đau đớn mà con sông phải hứng chịu.

Tôi thường đứng trên cây cầu bằng thép đã hoen gỉ, nhìn về phía hai bên bờ thành phố, cố để nghĩ ra điều gì đó, nhưng không thể. Dưới chân cầu này là những xoáy nước hung dữ còn tôi không mong muốn máu của mình trở thành một phần của trùng trùng số phận. Nhưng nếu chẳng may, đoàn tàu đi qua cầu xình xịch, tạo nên một tần số dao động kỳ diệu nào đó phù hợp với nhịp điệu của thần Chết, cây cầu sẽ gẫy, tôi sẽ rơi xuống xoáy nước. Sợ hãi hình ảnh ấy, tôi không còn có thể nghĩ gì thêm được nữa.

Nhìn về phía tả ngạn, một dãy nhà lụp sụp chen với khóm cây lùm xùm không cao không thấp, vừa bị phủ bởi lớp bụi thành phố, vừa nhớp nháp khí bùn của dòng sông. Sống trong dãy nhà ấy là những con người hàng ngày sẽ tô thêm sắc đỏ cho sông, nhưng chẳng ai nhớ đến họ cả. Họ là dân tứ chiếng từ đâu trôi dạt đến, hoặc buôn gian bán lậu, hoặc phân phối ma túy, hoặc trốn án. Nếu may mắn, họ sẽ được vào thành phố với một cuộc đời khác, khi chết đi họ được ở cùng tổ tiên. Nếu không may mắn, họ sẽ mất tích trong các xoáy nước, không ai nhớ đến, không ai biết tên. Họ là những con người không căn cước, không biết từ đâu đến cũng không rõ sẽ về đâu. Bởi thế, đời sống với họ là một sự tiếp diễn như một chuỗi các sự kiện mà không cần biết đến ngày, đến tháng.

Thành phố này ẩn chứa nhiều cái chết. Nếu muốn nghiên cứu về cái chết, tôi chỉ cần đi loanh quanh trong thành phố. Một góc phố, một cái hồ, một ngôi nhà đổ nát, một căn chung cư… chỗ nào cũng có thể ẩn chứa những linh hồn oan khuất. Đó là lý do nó được đặt cạnh một dòng sông có màu của máu được pha loãng. Tôi không phải là một người điều tra án mạng, không phải nhà báo, tôi là kẻ bị kích thích bởi những tiếng thì thầm của oan hồn. Tôi dạo bước vào khu tả ngạn con sông cũng bởi trong một ngày lang thang tránh cái nắng như thiêu như đốt của mùa hè đi ngang qua đây tôi nghe thấy những tiếng thì thầm: “Hãy đi đi… đi đi… đừng vào đây… đừng vào đây…”

Tôi sẽ vào! Đó là quyết định của con người được cho là cá tính của tôi. Hoặc cũng có thể đó là quyết định của một con quỷ nào đó ẩn nấp trong tôi, muốn dẫn dắt tôi vào những nơi ma quái. Nếu ai đó bị thu hút bởi ma quỷ, dù là để tuân thủ hay chống lại, có phải bởi vì trong họ cũng ẩn chứa một con quỷ khác? Mặt trời chiếu xuống ức tỉ tia nắng như muốn xuyên kim vào da thịt, dù gì cũng không phải là một phương án tốt nếu cứ lang thang ngoài đường.

Những tiếng thì thầm vẫn rên rỉ bên tai tôi:

  • Đừng vào… đi đi… đi đi… đừng vào…

Gió xào xạc thổi qua, rít từng hồi nóng hổi vào tán cây rồi luồn qua tóc tôi. Tôi cảm nhận thấy mái tóc đen của tôi đang dần khô đi như những chiếc lá đang nâu dần từng mép. Chân tôi thả trên con đường xi măng lồi lõm, khô rang, trắng xóa. Đi được vài bước, tôi thấy một cái miếu nhỏ hương vẫn thắp nghi ngút. Chính giữa miếu là bức ảnh của một anh chàng người Việt lai Tây, có gương mặt gầy nhỏ. Anh chàng trong bức di ảnh chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi, nét Việt nhiều hơn Tây, đầu tóc bờm xờm và trông không có vẻ gì là giàu có. Có lẽ, anh ta mới chết, nhưng vì “chết giờ thiêng”, đại loại thế, nên được dân tứ chiếng ở đây thờ chăng? Dân thành phố tôi vẫn có thói quen dựng miếu thờ những ai “chết giờ thiêng” và nuôi dưỡng linh hồn ấy bằng nỗi sợ của mình.

Gió ngừng thổi. Tôi bước qua miếu để đi tiếp. Sẽ rất tốt nếu bây giờ có thể tìm được một quán nước có máy lạnh. Xa xỉ quá rồi! Một quán nước mía cũng được. Tôi sẽ bỏ qua ý nghĩ rằng người ta sẽ lấy nước của dòng sông để làm đá và điều ấy chẳng khác nào uống nước mía với những cục tiết đông lạnh. Có thể uống một cốc nước mía ấy sẽ giúp tôi quên đi tiếng thì thầm bên tai và trấn áp con quỷ đang trỗi dậy trong tôi.

Và kia, một quán ăn ven đường có thể xem là lịch sự. Quán ăn không ngồi lê la ở vỉa hè mà nằm trong một căn nhà hai tầng. Khách lưa thưa vài người, cắm mặt ngồi ăn. Quán không có điều hòa nhưng quạt máy chạy hết năng suất. Trời nóng quá, không ai muốn nói với ai câu nào. Tôi chọn một góc ngồi nhìn ra con sông. Tầm nhìn rộng lớn của con sông bị cản bởi tàu lá chuối rách tả tơi ở bụi chuối gần đó. Thấy tôi bước vào quán, những người khách ngẩng mặt lên nhìn rồi lại cắm mặt vào ăn, không tiếng động.

Tôi gọi một bát cháo và một cốc trà đá, nhâm nhi nhìn ra bên ngoài. Tiếng thì thầm có lẽ không còn đeo đuổi tôi nữa. Có thể đó chỉ là ảo giác được nhào nặn lên từ tiếng gió và cảm giác mệt mỏi vì nắng nóng. Tôi chợt phát hiện ra, từ góc tôi ngồi có thể nhìn thấy cái miếu thờ anh chàng người Việt lai Tây. Những tàn hương đang cháy lụi dần, lụi dần. Liệu hết hương có ai thắp, hay họ sẽ để trơ trọi không ai quan tâm?

Hương chỉ còn một chấm lửa đỏ là sẽ tàn. Tôi nhún vai, ăn một thìa cháo, uống một miếng nước. Cái miếu không đáng để tôi quan tâm đến mức thế. Ở đây chẳng có gì đáng để chú ý. Tôi sẽ rời khỏi đây sớm. Một khu dân cứ như thế này, ma quỷ không đáng sợ bằng tội phạm.

Dòng sông vẫn cuộn đỏ, sóng đánh vào bờ tì tọp. Một con chó hoang nằm dưới bụi chuối bỗng nhổm dậy. Nó hếch cái mũi đánh hơi, rồi chúi mũi xuống đất hít hít. Nó đi gần ra bờ sông, rúc cái mõm xuống nước, chân trước với với cái gì đó. Một lúc sau, nó tha thứ ấy lên bờ, thè lưỡi liếm liếm. Nó nhai ngấu nghiến, trong họng gừ gừ tỏ vẻ ngon lành. Chắc mẩm nó bắt được một con chuột nước và đang được tận hưởng một bữa ăn thuần tự nhiên tuyệt hảo, dù hơi ghê rợn. Tôi lập tức thấy mất ngon và muốn chuyển chỗ, nhưng những chỗ khác ngồi gần khách hoặc gần bếp quá, tôi đều không ưa.

Một nhân viên của quán đi ra miếu, thắp hương. Thì ra quán thường xuyên hương khói, chăm lo cho miếu. Sau đó, người nhân viên xách xô nước bẩn đi ra gần bụi chuối để đổ.

  • Á…. Á… Con chó… – Người nhân viên hét lên – … cánh tay… chết người…

Người nhân viên vứt xô nước lênh láng đổ, chạy tọt vào nhà. Tất cả mọi người trong quán đều chạy nhao ra. Không có xác chết nào cả. Chỉ có một cánh tay người trắng ởn, mạch máu thâm sì, đeo chiếc nhẫn vàng rởm đã bị xé toạc. Kiến bu đầy, không sao cả, con chó ăn luôn cả kiến. Thấy đám đông người vây lại, con chó đè hai chân trước lên cánh tay, sủa gâu gâu hung dữ. Màu răng của nó cũng cùng màu với miếng xương cẳng tay đang trơ lên khi bị ăn hết thịt.

Bát hương bên miếu đột nhiên bùng cháy rực rỡ. Chủ quán, một người đàn bà trung niên, tóc búi chạy vội lại, quỳ xuống vái lấy vái để. Đám nhân viên cũng ngơ ngác chạy theo quỳ xuống.

  • Cậu, cậu sống khôn chết thiêng, bảo vệ chúng con khỏi thằng tâm thần… Xin cậu… – Bà chủ quán vái lấy vái để rồi đổi giọng quát đám nhân viên – Mau, mang cúng cho cậu bát cháo, không tối nay đi làm về thì liệu hồn.

Một bát cháo được đặt trên ban thờ. Chỗ hương hóa đã cháy hết. Một que hương mới được cắm vào. Mọi người lại quay lại bàn ăn, tiếp tục cắm mặt vào không nói gì. Con chó lại tiếp tục nhai rau ráu cái tay người. Bà chủ quán và đám nhân viên phủi bụi đứng dậy rồi lại quay lại những công việc đang dang dở của mình.

Tôi mon men đến gần bà chủ, hỏi:

  • Chị ơi, miếu thờ ai đấy chị?

Bà chủ nhìn tôi từ trên xuống dưới như nhìn sinh vật là rồi cười hềnh hệch:

  • Miếu thờ cậu. Cậu phù hộ cho dân vùng này không bị thằng tâm thần giết. Nhà nào quên thắp hương cho cậu là nhà đó sẽ có người bị thằng tâm thần giết. Cẳng tay kia chắc của đứa nào quên thắp hương cho cậu ấy mà.

Tôi định hỏi là “Sao không báo công an”, nhưng chợt nhớ ra đây là khu tội phạm. Dân ở đây không ưa công an. Thỉnh thoảng, công an cũng vào đây thị sát, nhưng vào để thu tiền rồi đi ngay, không muốn lưu lại lâu. Tôi hỏi tiếp:

  • Thằng tâm thần là thằng nào ạ?

Bà chủ nhún vai:

  • Tôi mà biết nó là thằng nào thì tôi cũng banh xác. Cậu hồi trước cũng là nạn nhân của thằng tâm thần, nhưng cậu thoát được, chạy về đến chỗ cái miếu ban nãy thì chết. Sau khi cậu chết, cứ đến tối là cậu hiện về chỉ đường cho mọi người đi để tránh mặt thằng tâm thần. Ai không cúng cho cậu, cậu không chỉ đường, kiểu gì cũng rơi vào tay nó. Nó sẽ băm nát người rồi vứt xuống sông.

Vừa nói, bà ta vừa hất hàm về phía cái cẳng tay con chó đang ăn. Làm sao bà ta dám chắc rằng cái cẳng tay ấy là của nạn nhân xấu số nào đó do tên tâm thần băm nát? Nó có thể là cẳng tay của bất cứ ai. Kẻ tâm thần có thể là không ai cả.

Tôi đi về và mặc kệ khu dân cư ghê rợn ấy. Nhưng hình ảnh con chó nhai rau ráu cánh tay người đã được ngâm tẩm trong dòng sông máu… sự tưởng tượng về việc bát cháo tôi ăn được nấu bởi thứ nước ấy… những tiếng thì thào trong gió… tất cả đều ám ảnh tôi. Một bát hương bốc cháy và bức di ảnh của cậu thanh niên cứ bám riết lấy sợi dây thần kinh của tôi. Tôi cảm nhận thấy hơi nóng của từng que hương bị đốt len lỏi trong mạch máu của tôi.

Nằm trên giường, dạ dày của tôi cuộn lên luồng khí với cái mùi cháo. Mỗi lần mùi cháo cuộn lên là một tập hợp những hình ảnh ấy lại tái diễn cùng với tiếng thì thào. Tôi cố nhắm mắt ngủ cho quên đi cái nóng hầm hập phả ra từ những khối bê tông bị nung suốt một ngày.

Nhập nhoạng gương mặt của cậu thanh niên Việt lai tây. Cậu ta khoác trên vai cái ba lô đã sờn rách. Trong túi chỉ còn vài chục nghìn lẻ. Số tiền của cậu đã bị lột sạch trong những chuyến du lịch bụi ngu xuẩn. Không còn tiền để ở trong phố, không còn hạn thị thực, cậu lang thang tìm một chỗ không nhà cầm quyền nào có thể lùng bắt được cậu. Ăn bờ ngủ bụi cùng những con nghiện lang thang phê thuốc cũng giúp cậu qua ngày. Ở với chúng, cậu lại còn tiết kiệm được tiền mua kim tiêm. Một tình trạng hoàn hảo cho tình thế hiện nay của cậu.

Hôm ấy, trời lâm thâm mưa, cậu lê bước trong cơn đói. Cậu không đói thuốc, cậu chỉ đói cảm giác phê. Mạch máu của cậu đói cảm giác thư thái. Công an vừa bắt một ổ ma túy, cậu không tìm được chỗ lấy hàng mới. Cậu phải sục sạo khắp các con hẻm. Đâu là nơi có những kẻ mắt xớn xác nhìn ngược nhìn xuôi? Đâu là nơi một kẻ nào đó phi xe máy ngang qua cánh cửa, thò tay vào đưa tiền rồi lướt đi? Đâu là nơi có những kẻ đi đi lại lại tưởng chừng như vô mục đích? Cơn đói không cho phép cậu dừng chân, dù đã rất mệt mỏi.

Cậu ngửi thấy đâu đó mùi cần sa. Mùi cần thơm thơm trong vòm mũi cậu… Trong cơn đói này, có cần cũng đủ sướng. Cậu như con chó hoang, hít hít lần theo mùi cần. Mùi cần dẫn đến một căn nhà cấp bốn dột nát. Nhìn qua khe cửa sổ, cậu thấy một bóng người cạo trọc đầu rít hơi cần từ một ống thủy tinh. Hắn lắc lắc người theo tiếng nhạc Tây Tạng với các âm “Om” vang lên tựa hồ vọng từ chốn âm ti. Hắn vùng đứng dậy, nhảy múa như kẻ điên. Bước chân của hắn không hỗn loạn mà được sắp đặt thành một vòng tròng quanh nhà. Nhảy được đúng hai mươi mốt vòng, hắn quỳ rạp xuống rồi lại đứng lên, cứ thế đếm được chín lần.

  • Hỡi thần sông… – Hắn hét lên – Ta sẽ cho ngươi máu, ngươi hãy cho ta sức mạnh để ta nhập vào toàn thể…

Thế rồi, hắn ngồi xuống, tụng “Om” hòa vào tiếng “Om” ma quái từ cái đầu đĩa. Tiếng “Om” phát ra từ cổ họng hắn rung rung giống tiếng gừ gừ phát ra từ cổ họng của một con chó gặm xương. Càng “Om” nhiều, hắn càng phát ra thứ âm thanh như con chó hóc xương… Rồi lịm dần, lịm dần… Có lẽ hắn đã nhập vào một cảnh giới nào đó.

Nhưng cậu thì không biết thế. Cậu thấy hắn gục, và cửa nhà hắn không khóa. Cậu khe khẽ đẩy cửa vào. Thật là đã đời. Có đủ cần cho cậu tạm thời đỡ cơn đói, giống như người đi đường khát nước cần lắm một ly mía đá. Cơn phê không đủ nhưng xoa dịu cho cậu, giúp cậu quên đi những ngày chật vật tìm thuốc, quên đi những mảnh ký ức rời rạc về quê hương nào đó mà cậu đã từng có. Với cậu lúc này, nơi nào mang đến cho cậu những cơn phê, nơi ấy chính là quê hương đích thực, là nơi cậu thuộc về.

Trong cơn phê, cậu đã không kịp nhận ra rằng, cái đầu của cậu đã lăn lông lốc trên sàn nhà. Máu chảy lênh láng, nhưng âm “Om” hoàn hảo đã cấu trúc lại nhịp chảy của máu. Máu chảy một vòng rồi cuộn lại thành một bãi tóe ra những tia gọn gàng, đều đặn. Cơ thể đói thuốc của cậu dù bị chặt đứt đầu nhưng vẫn lảo đảo bước ra khỏi nhà. Ngay trước hiên nhà, cái thân khuỵu hẳn xuống, phát ra tiếng “bịch”. Kẻ giết người lầm bầm một đoạn kinh Phật bằng thứ tiếng Tây Tạng khó hiểu.

Hắn định bước ra lôi cái xác vào, nhưng con chó từ đâu xồ tới. Nó nhe răng trắng nhởn, nghiến răng kèn kẹt. Dưới ánh trăng, hai mắt nó vàng ệch lằn lên vệt máu. Hắn lùi lại, chui tọt vào phòng, đóng cửa lại. Có tiếng cạch của khóa. Con chó lôi xềnh xệch cái xác ra bờ sông. Nó chưa từng được chiến lợi phẩm lớn như thế. Nó đã nẫng tay trên của kẻ tâm thần muốn hiến tế cậu cho dòng sông đỏ máu. Nhờ thế, oan hồn của cậu vẫn lẩn khuất trong khu dân cư. Cũng nhờ thế, người dân nơi đây mới tìm ra xác cậu và bức ảnh của cậu. Nhờ thế mà cậu được thờ cúng.

Con chó ăn ngấu nghiến máu thịt của cậu. Bởi thế một phần của cậu đã ở trong nó. Cậu hiển linh thông qua nó. Con chó ở đâu, kẻ tâm thần sẽ tránh mặt. Hắn cảm thấy mối tử thù của cậu và hắn không muốn gây thù chuốc oán với một linh hồn chết oan. Một kẻ hướng tới toàn thể như hắn, cần phải tránh xa những năng lượng thù hận. Hắn đã hóa giải năng lượng thù hận bằng việc hiến tế cho dòng sông. Nhưng hắn không hiến tế được cậu, bởi thế hắn sợ cậu.

Nhiều đêm, cậu muốn xông thẳng vào nhà hắn trong thân xác con chó. Cậu muốn xé xác hắn giống như cách hắn vẫn làm. Thế nhưng, khi trong thân thể của con chó hoang với cơn đói thức ăn cồn cào, cậu mới nhận ra rằng một phần xác chết hắn hiến tế cho thần sông sẽ trôi dạt lên bờ, và cậu có thể có bữa ăn ngon. Lũ người sống ngu xuẩn hàng ngày cúng thức ăn trong miếu của cậu mà cậu không được hưởng một miếng. Thấy con chó hoang lại gần, chúng xua đuổi. Chúng còn ảo tưởng rằng cậu sẽ chỉ đường dẫn lối cho lũ ngu xuẩn ấy thoát khỏi kẻ tâm thần. Chúng quá ngu để hiểu rằng, còn kẻ tâm thần giết người, cậu còn được sống. Lũ người ấy, khi cậu sống, chúng khinh miệt thằng nghiện như cậu. Khi cậu chết, chúng lại thờ cúng nhờ bảo vệ. Nên cậu không cần chúng. Cậu muốn chúng rơi vào tay kẻ tâm thần. Cậu chỉ cần một khúc xương thừa thần sông vĩ đại vứt lại sau khi tận hưởng hết đồ hiến tế, cậu đã thấy mình phúc phận lắm rồi.

Một cơn giông nổi lên, miết bên ngoài cửa sổ nhà tôi. Tôi vùng tỉnh dậy. Tôi đã lạc vào giấc mơ không rõ từ khi nào. Tôi không dám chắc rằng mình ở trong cơn ác mộng từ lần đầu đặt chân vào khu dân cư hay từ lúc chứng kiến cái chết của cậu thanh niên nghiện ngập kia. Không còn tiếng thì thào. Lần này đích thị là tiếng gió. Cơn giông cuốn theo mảnh báo vụn từ đâu bay lại. Mảnh báo bị gió ép vào cửa sổ nhà tôi. Tôi đọc được dòng tựa đề: “Triển khai giải tỏa khu dân cư ven sông…”. Rồi gió lại cuốn mảnh báo đi mất cùng với rác rến trong thành phố…

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 9

Luận về “Hiểu” và “Biết”

“Bây giờ toàn những người chỉ biết mà không hiểu” hay “Người Việt Nam không hiểu cái gì sâu cả, chỉ toàn biết sơ sơ”… những nhận xét như vậy đã trở thành một điệp khúc của những người than thở về sự xuống cấp của văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa thời đại Internet nói chung. Điệp khúc ấy khiến tôi phải dừng lại và suy nghĩ, đâu là mối quan hệ giữa “Hiểu” và “Biết”?

Ý nghĩ đầu tiên khi bước chân vào dòng suy nghĩ này đó là câu thành ngữ của người Trung Hoa: “Họa hổ, họa bì, nan họa cốt/ Tri nhân, tri diện, bất tri tâm” (Có nghĩa là: “Vẽ hổ, vẽ da, khó vẽ xương/ Biết người, biết mặt, không biết lòng”. Từ “Biết” tiếng Hán là “tri”. Người Á Đông rất coi trọng sự “biết”. Có một sự khác biệt lớn về cấp độ nhận thức giữa “kiến thức” (những điều trông thấy) và “tri thức” (những điều đã đạt đến độ biết). Tức là “kiến thức” chỉ nằm ở cấp độ vẽ da con hổ mà thôi, còn cấp độ của “tri thức” là cấp độ của việc nhận thức điều gì đó cả trong lẫn ngoài. Điều này không có nghĩa rằng chúng ta có nhiều kiến thức thì sẽ  có tri thức, bởi lần mò, sờ mó khắp bộ lông con hổ, bạn có thể thấu suốt được bên trong của nó.

“Biết” tiếng Anh là “know”. Dấu vết đầu tiên của từ “know” có thể thấy trong từ “cnawlece” tương đương với “acknowledgment of a superior, honor, worship”, có nghĩa là “kính ngưỡng một lực lượng siêu nhiên, tôn vinh, thờ phụng”. Tiếng Anh thời Trung Cổ có từ “knoulechen”, sau này chuyển thành “acknowledge” với ý nghĩa “nhận ra” hay “giao hòa”. Qúa trình tìm hiểu từ nguyên của từ “know” này thật sự khiến tôi thích thú, bởi những gì tôi nhận thức về sự “biết” lại rất gần với ý nghĩa cổ xưa. Đứng trước một sự việc, khi chúng ta không ở trong nó thì chúng ta không thể biết về nó. Tiếp xúc với một sự vật nếu không có sự giao hòa về mặt năng lượng với sự vật thì không thể gọi là “biết” sự vật ấy. Đây chính là nguyên lý mà các cao thủ võ lâm trong truyện kiếm hiệp vẫn nhắc tới, khi người và kiếm hợp nhất. Bái Hỏa giáo do Zarathustra sáng lập, tôn giáo cổ xưa nhất của loài người có hình thức chiêm nghiệm ngọn lửa và chỉ thực sự biết về lửa khi người và lửa hợp nhất. Một cách gần gũi hơn, Đức Phật chỉ biết về Niết Bàn khi nhập vào Niết Bàn, Jesus chỉ biết được Thượng Đế khi hòa làm một với Thượng Đế.

Rõ ràng, dù ở từ “tri” của tiếng Hán hay “know” của tiếng Anh, ta đều thấy sự khẳng định rằng chúng ta không thể biết được một điều gì đó nếu chưa từng thấy và trải qua điều đó.

“Hiểu” có tiếng Hán là “thông” và tiếng Anh là “understand”. Tiếng Anh Cổ là “understandan” với ý nghĩa “bao hàm và nắm bắt ý tưởng”. Từ “thông” trong tiếng Hán cũng có cách hiểu là đào sâu một vấn đề nào đó để thấu suốt nó. Nói một cách ngắn gọn, “hiểu” chính là nắm bắt được bản chất của vấn đề.

Không biết từ bao giờ người Việt có lối nghĩ rằng việc “hiểu” quan trọng hơn việc “biết”, có thể là từ khi xứ ta được tiếp xúc với lối tư duy logic và cho rằng logic là cách duy nhất để đạt được sự hiểu biết. Nhiều người đã đồng nhất sự “hiểu” với tính logic, nhưng logic chỉ là một phương pháp tư duy để dẫn đến việc hiểu. Bên cạnh quá trình tư duy logic, những nhà khoa học vĩ đại còn mơ hồ nói đến một sự “hiểu” trong trạng thái vô thức, hay người ta vẫn gọi một cách chung chung là “trực giác”. Vì lý do nào đó, tự nhiên, trong khoảnh khắc, một người hiểu được vấn đề mà trước đó họ phải mất rất nhiều công sức để tư duy mà không thể tìm ra.

Vậy thì đâu là sự tương tác giữa “Hiểu” và “Biết”? Làm sao một người có thể “hiểu” vấn đề nếu không từng thấy và biết ở bề mặt của một vấn đề nào đó? Và làm sao người ta có thể đạt đến mức độ “giao hòa” của sự “biết” nếu không qua quá trình tìm tòi đến mức thông hiểu bản chất của vấn đề. Có vẻ như “hiểu” là chiếc cầu giúp chúng ta bắc từ trạng thái bên ngoài của sự vật, sự việc để vào đến cốt lõi và hơn cả thế, trải qua quá trình hợp nhất với điều ta đang khám phá. “Biết” có nhiều cấp độ, và “hiểu” giúp ta gia tăng cấp độ, mở rộng đường biên của sự biết.

Trang Tử trong chương Thu Thủy của Nam Hoa Kinh có một đoạn luận rất hay về tương quan giữa hiểu biết của con người và vũ trụ: Sự hiểu biết của con người chẳng qua chỉ như một giọt nước giữa đại dương mênh mông, nhưng tham vọng của con người lại chính là hiểu biết về đại dương đó. Bởi thế, từ Cổ chí Kim, bất luận Đông Tây, các học giả vẫn mải miết đi tìm bản chất của thực tại, các quy luật vận hành vũ trụ, hay theo ngôn ngữ của phương Đông là Đạo. Và cho dù có nhiều học thuyết đến đâu thì không một học thuyết nào có thể thỏa mãn nhân loại. Đó là một quá trình nhận thấy, biết, hiểu, biết sâu hơn, nhận ra thêm một điều gì đó, rồi lại hiểu và biết sâu hơn nữa… Và có lẽ ở mức độ biết cao nhất, sâu nhất, rộng nhất, đó là nhập làm một với vũ trụ, giống như giọt nước sẽ có tri thức về đại dương khi trở thành một phần của đại dương ấy. Phải chăng, đây chính là ý Lão Tử ngầm gửi gắm trong câu “Khi chưa tu Đạo thì thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông; mới tu Đạo thì núi không còn là núi, sông không còn là sông; đến khi đắc Đạo thì núi vẫn là núi, sông vẫn là sông”. Tuy nhiên, tôi vẫn không dám chắc rằng đó là giới hạn cuối cùng, bởi lẽ tôi chưa đạt đến mức độ biết đó, và giống như một Thiền Sư nhà Trần đã viết:

“Li tịch phương ngôn tịch diệt khứ,
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.”

Quảng Nghiêm Thiền Sư

(Dịch nghĩa: “Chưa đến cõi chết thì không bàn về việc chết/ Sống mà không phụ thuộc vào sự sống thì mới được giảng về sự không sống)

Quay trở lại vấn đề “Hiểu” và “Biết”, sự mênh mông của tri thức có lẽ là điều không còn gì phải bàn cãi. Tôi tin rằng, cho đến bây giờ, không một khoa học gia, một triết gia nào còn dám vỗ ngực rằng mình hiểu bản chất của một hạt cát chứ đừng nói rằng hiểu được vũ trụ. Bởi cứ mỗi lần nhận thấy điều gì đó trong quá trình tìm tòi, họ lại giật mình nhận ra rằng hóa ra những điều mình biết trước đây là sai lầm hoặc thiếu sót.  Sự nhận ra này trở nên nhanh chóng hơn ở thời đại ngày nay, khi thông tin nhiều hơn, thế giới vận hành mạnh mẽ hơn… Chỉ cần khi mới chạm được đến sự biết nào đó thì lập tức các dữ kiện mới xuất hiện và phá bỏ cách hiểu trước đó.

Cái duy nhất con người có thể chắc chắn biết được đó là chúng ta không hiểu biết gì nhiều lắm về vũ trụ, về thế giới, về xã hội và về chính bản thân chúng ta. Mọi thứ chúng ta tưởng là chúng ta biết có thể rằng chúng ta còn chưa từng nhìn thấy, chưa từng trải nghiệm, và chắc chắn rằng chúng ta không thể có sự hiểu hay hòa nhập với nó. Bằng một cách nói quen thuộc mà tôi hay sử dụng, thì đó là ảo tưởng về sự “Biết”, bởi chúng ta chỉ tiếp xúc với sự vật, sự việc bằng các khái niệm trừu tượng trong từ điển hay những quyển sách diễn giải dài ngoằng của các nhà lý thuyết. Lý thuyết không phải tất cả, lý thuyết chỉ là một quá trình diễn ngôn về sự hiểu và sự biết của một nhà lập thuyết. Sự biết ấy có giới hạn và đến một lúc nào đó, khi bị đặt sang một không gian khác, tình huống khác, lý thuyết ấy không còn đúng nữa. Tóm lại, lý thuyết có thể chỉ là một sự đúc rút kinh nghiệm ở cấp độ cao, sâu và rộng. Mà vấn đề là không có cao cực cao, sâu cực sâu, rộng cực rộng, vì không có giới hạn cho điều này. Chúng ta  đọc được những lý thuyết ấy, nắm bắt được phần nào các khái niệm, và chúng ta tưởng rằng chúng ta đã biết. Đúng là chúng ta đã biết, nhưng chúng ta chỉ biết cái mường tượng, cái ảo ảnh được vẽ ra trong đầu dựa trên lý thuyết ấy.

Có một nguyên tắc quan trọng trong con đường khám phá, đó là phải bỏ lại những sự “Biết” và sự “Hiểu” trong quá khứ của mình. Nếu không bỏ lại, chúng ta không thể phá vỡ các giới hạn của nhận thức, không thể mở rộng đường biên, Điều này tương đồng trong phép tu Vô Ngã. Mọi thứ ta thấy đều chỉ là ảo tưởng, khi vứt bỏ ảo tưởng này, ảo tưởng khác lại xuất hiện. Qúa trình vứt bỏ liên tục, quá trình đi sâu hơn nữa, vươn cao hơn nữa, trải rộng hơn nữa là quá trình để chúng ta đạt tới sự hiểu biết thật sự.

Đây chỉ là những hiểu biết của tôi về sự Hiểu và sự Biết. Có thể ngày mai, ngày kia hay một thời gian ngắn nữa, những điều tôi đã nhận thức ở đây không còn đúng nữa và tôi sẽ lại phá vỡ những giới hạn này để hiểu biết hơn về chính sự Hiểu Biết.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 / page 9

Mưa

Mây ùn ùn từ đâu kéo đến không biết… và trời mưa! Mưa! Lộp độp! Ào ào! Rả rich!… Mưa như một cuộc làm tình miên man của Đất và Trời…

…Mây đi một quãng đường dài để rồi trút xuống hết theo một cơn mưa rào vội vã. Để làm chi?

…Một hạt mầm đương đầu với bao thử thách, trải bao sóng gió, vươn lên thành một cái cây, cây ra hoa, ra quả và rồi bị một con chim nào đó nuốt mất. Để làm chi?

…Một con chim lạ cất cao tiếng hót diệu kỳ và nhận lấy cho cuộc đời mình là mũi gai đâm chảy cạn máu ở tim. Để làm chi?

…Chúng ta đang theo đuổi điều gì giữa cõi mênh mông  này? Con người sinh ra chỉ để chết hay để vĩnh hằng… Biết cũng để làm chi?

Giữa trời mưa, một nụ hoa khẽ nhú khỏi đám lá xanh mướt… Ngày mai, nụ hoa ấy sẽ thành một bông hoa rực rỡ với hương ngào ngạt không gì sánh nổi…Thế nhưng, trong cơn mưa một kẻ vội vã chạy vào chỗ trú đã vô tình dẫm nát nụ hoa mong manh ấy. Có những bông hoa chưa nở đã vội tàn… Có những con chim chưa kịp hót đã bị trúng đạn rơi xuống… Có những đứa trẻ chưa kịp khóc đã nhắm mắt im lìm… Và có những cơn mưa chưa kịp làm ướt áo người thì đã tạnh.

Sự sống thì quá ngắn mà cái chết lại quá dài… Cũng chẳng quan tâm để làm gì? Kéo dài sự sống là một tham vọng điên cuồng… Sống lâu mấy rồi cũng chỉ để chết…

Chỉ biết như cơn mưa chiều nay, Trời – Đất giao hoà nhau đến tận cùng để tuôn ra từng giọt tinh huyết… Mưa thật dữ dội! Mưa thật say! Mưa điên cuồng… để trút cạn hết khí lực của Đất – Trời, để những tiếng rì rầm của sấm không còn bức bối, để từ cõi xa xôi người ta vẫn gọi là “đường chân trời”, cầu vồng đẹp đẽ hiện lên chỉ là  một ảo ảnh mong manh!

Hà Thủy Nguyên

Trích tập truyện ngắn và tản văn “Bên kia cánh cửa”