Thơ Đường

Theo dõi

Bài viết gần đây

Thu lai – Lý Hạ

Xào xạc ngô đồng tráng sĩ rầu Đèn lụi vạc kêu áo lạnh đâu. Sách tre nằm đó nào ai thấy Bụi phủ mọt xông chẳng người lau. Đêm thu lòng bận thêm đau quặn Mưa lạnh hồn vương khóc người xưa. Mộ thu quỷ khóc thơ ngài Bảo Máu hận ngàn năm thấm ngọc sâu. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Đồng phong kinh tâm tráng sĩ khổ, Suy đăng lạc vĩ đề hàn tố. Thuỳ khan thanh giản nhất biên thư, Bất

Hiệp khách hành – Lý Bạch

Khách Triệu dải mũ lay Gươm Ngô sương tuyết rọi (*) Bạch mã yên ánh bạc, Lấp loáng tựa sao bay. Mười bước thêm kẻ chết, Vạn dặm làm chi đây. (**) Việc xong bèn phất áo Ẩn kín thân danh này. Nhàn đến Tín Lăng chơi, Buông kiếm nhập cuộc say. Chu Hơi này chả nướng Hầu Doanh chén rượu đây. Ba chén cạn xá chi Ngũ Nhạc nhẹ như mây. Tai bập bùng hoa mắt, Ý khí sắc tỏa dày. Chùy vàng vung

Đăng Cao – Đỗ Phủ

"Đăng Cao" là một tuyệt tác của Đỗ Phủ, bài thơ chạm đến sâu thẳm trong tinh thần độc giả đến nỗi có rất nhiều bản dịch hay. Nhưng rồi thì tôi vẫn dịch một bài "Đăng Cao" cho chính mình, bởi đó là cảm ngộ của mình. Gió thốc trời cao vượn hú sầu Bến trong cát trắng chim liệng mau Hiu hắt lá rụng hoài không ngớt Cuồn cuộn sông trôi mãi về đâu Thu rầu vạn dặm nơi đất khách Thân tàn

Thái liên khúc – Lý Bạch

Bản dịch của Hà Thủy Nguyên Kỳ 1: Mỹ nhân hái sen suối Nhược Da (*) Nói cười tiếng ngọc lẩn trong hoa Đáy nước long lanh tia nắng rọi Gió lùa tay áo phất hương xa Kỳ 2: Dăm ba gã trẻ nhà ai đó Ven bờ dạo bước liễu buông tơ (**) Ngựa tía dẫm hoa vang tiếng hí Đau thương trông cảnh luống ngẩn ngơ Bản Hán Việt Kỳ 1 Nhược Da khê bàng thái liên nữ, Tiếu cách hà hoa cộng

Tuyên Châu Tạ Diễu lâu tiễn biệt hiệu thư thúc Vân – Lý Bạch

Bỏ ta người đi Ngày qua ngày ai người giữ lại Lòng ta rối bời Hôm nay sao ưu phiền tới vậy. Gió thu muộn dặm tiễn nhạn bay Đành ở lầu cao chuốc rượu say Cốt cách Kiến An văn Bồng Lai (*) Chàng Tạ cao nhã vẫn còn đây. (**) Lòng tràn thi hứng thơ bay bổng Muốn leo trời cao hái vầng trăng Rút đao chém nước nước vẫn chảy, Nâng chén tiêu sầu sầu thêm sầu, Sống giữa cõi đời không

Hữu sở tư – Lý Hạ

Năm cũ bên đường hát biệt ly Hôm nay đất Thục người vẫn đi Tháng hai bên rèm hoa đùa gió Trước thềm ngàn dặm trúc lâm li Tiếng đàn như lòng thiếp Đứt nối hết đêm này Nhớ chàng ngựa trắng mang cung gỗ Nơi đâu mà chẳng gió xuân bay? Lòng chàng há nặng như đá tảng Thân thiếp nào mãi vẻ hồng hoa. Trời biếc sông xa ngang đêm tàn Sóng bạc đầu cuộn chẳng cầu sang. Gió Tây chưa thổi sầu

Lậu thất minh – Lưu Vũ Tích

Núi nào bởi cao, tiên ở thành danh Nước nào tại sâu, rồng ngụ mà linh Gian nhà quê mùa, đức vang tiếng lành Biếc thềm vệt rêu phủ, rèm thưa cỏ chìm xanh Bậc túc nho cười nói, phường tục tử bặt thanh Khẽ gảy cây đàn mộc, tụng Kim cang Chẳng đàn sáo để bận tai, không án thư mà nhọc mình Nam Dương có lều cỏ, Tây Thục có nguyên đình (*) Khổng Tử hỏi: “Có chi mà quê mùa?” Hà Thủy

Bồ tát man – Lý Bạch

Rừng xa tịch mịch lụa mây vờn Núi trơ một dải rợn thê lương Lầu cao bóng chiều buông Trên lầu người buồn thương Thềm ngọc hoài trông ngóng Về tổ chim chiều liệng Về nhà đường nơi đâu Đình lại quán nối nhau. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Bình lâm mạc mạc yên như chức, Hàn san nhất đới thương tâm bích. Minh sắc nhập cao lâu, Hữu nhân lâu thượng sầu. Ngọc giai không trữ lập, Túc điểu quy phi cấp.

Lạc hoa – Lý Thương Ẩn

Lầu cao khách xa rồi Góc vườn hoa tả tơi Lưa thưa đường uốn khúc Tiễn bóng chiều xa xôi Thương tâm nào nỡ quét Trông cảnh lại ngóng người Nỗi lòng ngày xuân cạn Đẫm lệ áo này thôi Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Cao các khách cánh khứ, Tiểu viên hoa loạn phi. Sâm si liên khúc mạch, Điều đệ tống tà huy. Trường đoạn vị nhẫn tảo, Nhãn xuyên nhưng dục quy. Phương tâm hướng xuân tận, Sở đắc thị

Thanh Minh – Đỗ Mục

Thanh minh mưa phủ bụi giăng giăng Dặm vắng người đi muốn xót lòng Tửu quán chốn nao xin gặng hỏi? Hạnh Hoa làng ấy trẻ trỏ đường. Hà Thủy Nguyên dịch Bản Hán Việt: Thanh minh thời tiết vũ phân phân, Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn. Tá vấn tửu gia hà xứ hữu? Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn.