Tự bao giờ, một bàn tay vô hình đã tài tình kết vô vàn giọt lệ thành những bông hoa. Đêm nay, một bông hoa rụng cánh xuống mặt bàn gỗ xù xì, uế tạp, xỉn màu thời gian. Đêm nay, có loài hoa rưng rưng bật khóc. Hoa được sinh ra từ nước mắt để rồi cả cuộc đời chỉ biết khóc than.
Ta không nhặt những cánh hoa rơi đem liệm trong túi vải như nàng Lâm Đại Ngọc, ta lại càng không nỡ để những nhát chổi vô tình biến chúng thành rác rưởi. Thả xuống với cánh hoa từng lọn tóc của một thời xuân sắc, những mong có thể khiến nỗi đau ngấm vào lòng đất! Nhưng không, mặt đất vẫn yên bình…
Mái tóc cũng là dòng lệ. Ta chỉ biết giấu nỗi đau trong mái tóc cứ dài mãi, dài mãi tựa bóng đêm! Một ngày kia nước mắt sẽ cạn. Tóc đã bạc rồi! Còn ý nghĩa gi đâu những nỗi đau khi loài người sinh ra bằng tiếng khóc.
Đêm nay, trăng đã rụng, sao đã tan tác giữa không trung. Cơn mưa lạnh đã cướp hết trăng sao của những kẻ đa tình. Rả rich! Rả rich! Trời khóc như một thiếu phụ mất chồng. Nàng sẽ đánh đổi những giọt nước mắt ấy lấy tính mạng của người chồng quá cố? Không! Nàng chọn nước mắt! Nỗi sầu ngàn kiếp đôi khi có ý nghĩa hơn cả niềm hạnh phúc.
Đêm qua đi trên từng cánh hoa. Gió tuyệt vọng thở dài tiễn biệt nỗi đau vào lòng đất. Thật bất hạnh cho những bông hoa “bất tử”, chúng không bao giờ rụng cánh, nghĩa là chúng cũng chẳng bao giờ biết khóc.
Có những con trai kết đớn đau thành ngọc quý, có những bông hoa được kết bằng giọt lệ, có những con người kết đêm thành kiệt tác… Còn ta chỉ biết kết cơ man nào là tóc rối thành một nụ cười thả cho gió cuốn trôi.
Hà Thủy Nguyên
Ảnh đại diện là bức tranh “Vô” do Hà Thủy Nguyên vẽ bằng màu Acrylic.
Người ta oán trách Văn Cao vì đã từng làm sát thủ, từng viết những ca khúc đầy ngôn từ bạo lực; người ta cũng từng đấu tố Văn Cao vì tư tưởng lung lạc của ông dưới thời Cộng Sản; và cũng không ít người nghiêng mình thán phục tài năng âm nhạc của ông cho dù ông viết ca khúc cổ động hay ca khúc trữ tình. Tôi cho rằng Văn Cao là một người bị giằng xé giữa nhiều lựa chọn – mối mâu thuẫn giữa con người cá nhân và con người trách nhiệm; và điều siêu tuyệt của Văn Cao đó là ông hết mình trong mâu thuẫn ấy, hết mình tới nỗi cực đoan, tới nỗi ông không chắc chắn về con người thật của mình. Dường như ông cũng nhận thức được sự mâu thuẫn của mình, và khi âm nhạc không thể chuyển tải được mâu thuẫn đó, ông đã viết trong thơ:
Buổi sáng nay không phải mình thức dậy Một người nào trong tôi đang thở Trước mặt tôi Buồn nửa đêm nửa ngày len lỏi Nửa phố mặt trăng nửa phố mặt trời Từ khi ấy chúng tôi, hai người suy nghĩ Hai kẻ thù nhau Hai thái cực tâm hồn Hai người ấy trong một người chịu đựng Mưu hại lẫn nhau Không biết ngày đêm, không biết giả thật Từ phút ấy, tôi không còn thật nữa.
(Trích “Năm buổi sáng không có trong sự thật” – Văn Cao)
Đoạn thơ này phần nào giúp tôi lý giải các nghịch lý của Văn Cao. Một phần của ông là những trách nhiệm với dân tộc, với bạn bè, đồng đội; một phần khác lại ước mơ một đời sống tự do, thoát tục, thoát khỏi mọi phận vị. Tôi cho rằng đó là tâm sự chung của phần lớn văn nghệ sĩ lãng mạn trưởng thành trong giai đoạn 30-45 ở Việt Nam. Ban đầu, khi Việt Nam còn chịu dưới ách đô hộ của thực dân Pháp thì khao khát tự do cá nhân được đồng nhất với tự do cho dân tộc, nhưng khi dân tộc đã dành được độc lập và chính quyền Cộng Sản thực hiện chính sách văn hóa theo Đề cương văn hóa năm 1943 của Trường Chinh vềđềcao tính đại chúng và giai cấp thì tự do cá nhân đã mâu thuẫn với thứ được gọi là “quyền lợi của nhân dân”. Có lẽ, Văn Cao và nhiều người bạn của ông không sớm nhận thức được điều này như Phạm Duy, họ chọn ở lại để thực hiện trách nhiệm của mình với chính quyền mới để rồi sa lầy giữa hai con người “mưu hại lẫn nhau”.
Văn Cao (1923 – 1995) là nhạc sĩ thủ lĩnh trong phong trào tân nhạc ở Hải Phòng. Ông vốn là con của giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Ông bắt đầu học âm nhạc tại trường dòng Saint Josef ở bậc trung học. Do gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học ở năm thứ hai bậc thành trung, rồi đi làm điện thoại viên ở sở Bưu điện Hải Phòng nhưng được một tháng thì bỏ việc.
Con người tự do của Văn Cao
Văn Cao viết ca khúc đầu tiên là “Buồn tàn thu” khi mới 16 tuổi, lúc này ông đã tham gia nhóm Đồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng Qúy. Thời điểm Văn Cao viết “Buồn tàn thu” trùng với những ngày tang lễ của nhà văn Vũ Trọng Phụng, do đó, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha sau này đã viết: “16 tuổi, một ngày mùa thu, khi cả Hà Nội tiễn đưa nhà văn yểu mệnh nhưng cực kỳ nổi tiếng Vũ Trọng Phụng về cõi vĩnh hằng, nhạc phẩm đầu tiên – “Buồn tàn thu” của Văn Cao – đã ra đời. Bài hát với hơi hám của ca trù, phong vị Đường thi ở lời ca, đã mang một tiếc nuối về những sự ra đi không trở lại: “Đêm mùa thu chết – Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng …”
Ngay sau “Buồn tàn thu” là “Thiên Thai”. Có thể nói “Thiên Thai” thể hiện rõ ràng nhất giấc mơ thoát tục của Văn Cao. Qua câu chuyện hai chàng Lưu – Nguyễn tới cõi tiên Thiên Thai cùng với nét nhạc bay bổng, ta có thể thấy ẩn sâu trong tâm trí của Văn Cao là giấc mơ một cuộc sống thong dong tự tại. Khi viết bài này, ông mới 18 tuổi và phỏng theo thơ Hoàng Thoại. Ca khúc “Thiên Thai” là ca khúc có nhiều biến tấu phức tạp với 100 ô nhạc và các biến cảnh tuần tự như trong trường ca. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy cho chúng ta biết thêm về ca khúc này: “Văn Cao đã thú nhận rằng mình bị ảnh hưởng sông nước của hai truyện Đào nguyên, Thiên Thai cho nên đã soạn ra một bài hát. Một bài hát, theo tôi thật là tuyệt diệu ! Nó vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh. Nếu hình thức ca khúc trong Tân Nhạc Việt Nam cho tới năm 1944 này vẫn còn nằm trong khuôn khổ một đoản khúc được ước định trong một số khuôn nhạc nào đó, với một lối chuyển cung, chuyển điệu công thức nào đó… thì “Thiên Thai” của Văn Cao đã vươn lên một thức rất lớn, chia ra nhiều đoạn, nhiều cảnh, gồm tới con số chín mươi bốn khuôn nhạc, chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu…”
“Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn Cùng bầy tiên đàn ca bao năm Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về Tiên nữ ơi! Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao ? Những khi chiều tà trăng lên Tiếng ca còn rền trên cõi tiên.”
Sau thành công của “Buồn tàn thu” và “Thiên Thai”, Văn Cao viết “Suối mơ” trong một lần đến thăm dòng suối bên đền Cấm tại thị trấn Đồng Mỏ, Chi Lăng, Lạng Sơn. Cảnh sắc tại đền Cấm giờ đây không còn có được vẻ đẹp nguyên sơ nhưng ta vẻ đẹp của “Suối Mơ” thì vẫn còn mãi. Phần lời của ca khúc này cũng thể hiện giấc mơ về một cảnh sống lánh đời:
“Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối . Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát. Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi .
Tơ đàn chùng theo với tháng năm, Rừng còn nhớ tới người.
Trong chiều nào giữa chốn đây, Hồn cầm lắng tiếng đời.”
Tại Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy hát và gẩy guitar bài “Buồn tàn thu” khiến Văn Cao cảm thấy như gặp được tri kỷ. Hai ông nhanh chóng thân thiết và chính Văn Cao đã khuyến khích cũng như hướng dẫn Phạm Duy sáng tác. Văn Cao và Phạm Duy viết chung với nhau bài “Bến xuân”, có lẽ đây là bài hát đầu tiên có không khí mùa xuân mà Văn Cao viết (những ca khúc trước đó thường lấy cảm hứng từ mùa thu). “Bến xuân” được Văn Cao sáng tác để thể hiện tình yêu của mình với ca sĩ Hoàng Oanh khi nhớ lại ký ức Hoàng Oanh tới thăm nhà ông tại đò Rừng:
“Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước Em đến tôi một lần Bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân Từng đôi rung cánh trắng ríu rít ca u ú ù u ú Cành đào hoen nắng chan hoà! Chim ca thương mến, Chim ngân xa u ú ù u ú Hồn mùa ngây ngất trầm vương, Dìu nhau theo dốc mới nơi ven đồi Còn thấy chim ghen lời âu yếm Tới đây chân bước cùng ngập ngừng Mắt em như dáng thuyền soi nước Tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng ngoài bến xuân.”
Phạm Duy đặc biệt rất thích ca khúc “Trương Chi” của Văn Cao và cho rằng đây là ca khúc nói tên tiếng lòng của ông. Trương Chi được viết theo lối trường ca, mượn câu chuyện tình tuyệt vọng của chàng ca sĩ Trương Chi, Văn Cao đã thể hiện những vẻ đẹp của âm nhạc một cách tuyệt diệu. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy đã viết về “Trương Chi” như sau: “vào lúc tân nhạc mới chập chững biết đi mà Văn Cao đã viết được những câu nhạc diễn tả giọt mưa tài tình như vậy, thật là hiếm có.” Trong phần lời của ca khúc có những câu thơ tuyệt đẹp thể hiện con người tiêu diêu giữa cõi âm nhạc:
“Ngồi đây ta gõ ván thuyền
Ta ca Trái Đất còn riêng ta”
Cho đến nay, “Trương Chi” vẫn là ca khúc khó thể hiện nhất trong số các ca khúc của Văn Cao. Tôi xin được chọn phần trình bày của ca sĩ Thái Thanh. Mặc dù Thái Thanh chưa hoàn toàn thể hiện được tinh thần của “Trương Chi” nhưng cũng chỉ có bà có thể thể hiện được những độ khó trong khúc thức và luyến láy của ca khúc.
Nếu Văn Cao khuyến khích Phạm Duy sáng tác thì chính Phạm Duy đã khuyến khích Văn Cao ra Hà Nội. Văn Cao thuê một căn hộ nhỏ tại 171 phố Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền). Ông đã theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Lúc này, ông sáng tác nhiều thơ, truyện ngắn đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy. Trong 2 năm 1943 và 1944, ông đã xuất hiện tại các cuộc triển lãm hội họa ở nhà Khai Trí Tiến Đức với các bức tranh sơn dầu “Cô gái dậy thì”, “Sám hối”, “Nửa đêm”và đặc biệt là bức “Cuộc khiêu vũ những người tự tử”. Tranh của ông được báo chí đánh giá cao nhưng lại không bán được nên những ngày sống ở Hà Nội là những ngày thiếu thốn của ông. Cũng trong thời gian này, Việt Minh đã tiếp cận ông và thuyết phục ông tham gia phong trào Cách mạng.
Con người với các trách nhiệm và phận vị
Ngay từ ngày đầu trong sự nghiệp âm nhạc của mình Văn Cao đã tham gia nhóm nhạc Đồng Vọng (1930), tập hợp các nhạc sĩ ở Hải Phòng mà đứng đầu là Hoàng Qúy và Tô Vũ để tạo giọng nhạc hùng tráng, khích lệ tinh thần dân tộc phục vụ các hoạt động hướng đạo sinh. Trong quãng thời gian này, ông sáng tác các ca khúc cổ động như “Gió núi”, “Gò Đống Đa”, “Anh em khá cầm tay”. Nhưng chỉ đến khi chính thức tham gia Việt Minh, âm nhạc phục vụ Cách mạng của ông mới đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.
Năm 1944, Vũ Qúy (1914 – 1945), nhà hoạt động cách mạng, Quyền Bí thư Ban cán sự Đảng Hà Nội đã tới thuyết phục Văn Cao tham gia Cách mạng ngay tại nhà riêng của Văn Cao ở Nguyễn Thượng Hiền. Ngay hôm ấy, Văn Cao đã sáng tác ca khúc “Tiến quân ca” và được Vũ Qúy gửi đăng trên báo “Độc lập” trong tháng 11 năm 1994. Về sau, chính Hồ Chí Minh đã ký duyệt “Tiến quân ca” làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Không chỉ sáng tác các ca khúc Cách mạng, ông còn tham gia nhiệt tình các hoạt động của Việt Minh, đặc biệt là những nhiệm vụ đòi hỏi sự mạo hiểm. Văn Cao thực hiện 2 vụ ám sát và cảm hóa những người chỉ điểm là vụ Võ Văn Cầm ở Hà Nội (cảm hóa) và vụ Đỗ Đức Phin tại Hải Phòng (ám sát). Đồng thời, ông cũng tổ chức dạy võ thuật cho các đồng đội của mình vì từ nhỏ ông đã được học võ và giỏi võ, đã từng tham gia biểu diễn võ thuật thời niên thiếu. Đến năm 1946, Văn Cao tham gia áp tải vũ khí và tiền mặt vào miền Nam. Lúc này, ông được phân làm Ủy viên Chấp hành Hội Văn hóa cứu quốc, phụ trách Tổ điều tra của Công an Liên khu 3 và viết các bài cho báo Độc Lập. Năm 1947, ông lại được cử vào đội điều tra đặc biệt lên biên giới phía Bắc để tìm cách thực hiện liên minh với Vua Mèo nhằm ngăn chặn sự tràn sang của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Sau khi nhiệm vụ thành công, Văn Cao đã từ chối chức vụ được đề xuất cho ông trong ngành Công an với lý do “Công việc này không thích hợp với tôi”. Trong 3 năm từ 1947 đến 1949, ông sáng tác nhiều ca khúc Cách mạng quan trọng như “Làng tôi, “Tiến về Hà Nội”, “Ngày mùa” và đặc biệt là “Trường ca Sông Lô”.
Mặc dù hết mình cho các nhiệm vụ của Việt Minh nhưng cảm hứng lý tưởng Cách mạng này không tồn tại lâu với Văn Cao. Ông đã sớm nhận thức được các nhiệm vụ ấy khiến mình đau đớn như thế nào. Theo như lời nhạc sĩ Văn Thao, con trai nhạc sĩ Văn Cao kể lại thì ông đã rất hối hận với hành vi giết người của mình: “Với Văn Cao việc phải trừ khử một người là điều ông không hề muốn. Nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, vì sự sống của muôn người nên bắt buộc ông phải ra tay tiêu diệt những tên Việt gian ngoan cố. Ta có thể hiểu ông qua những câu thơ ông để lại: “Giữa sự sống và cái chết/ Tôi chọn sự sống/ Để bảo vệ sự sống/ Tôi chọn sự chết”. Trong Văn Cao có hai con người. Con người của nghệ thuật và con người làm cách mạng. Nhiều người muốn tìm hiểu phần con người thứ hai của ông. Nhất là những sự kiện mọi người gọi là “thành tích phi thường” ông đã làm trong thời gian phụ trách Đội trừ gian. Ông thường né tránh và ít khi nhắc đến. Có lần ông tâm sự với tôi: “… Bố đã từng giết một con người… Ông ta nhìn vào họng súng, nhìn bố với đôi mắt ngơ ngác như muốn hỏi – Sao lại giết tôi. Cho đến giờ, bố vẫn bị ám ảnh vì đôi mắt ấy…”.” Trong bài thơ “Mùa xuân trong đời tôi”, Văn Cao cũng thể hiện một tâm trạng chán ghét chiến tranh tột độ:
Cả mùa xuân đời tôi Đã qua cuộc chiến tranh tàn khốc Anh hùng và man rợ Thần thánh và quỷ dữ Tỉnh giấc ngủ buổi sáng đầy tiếng bom đạn nổ Sâu những mơ mộng buổi chiều là từng tiếng xe xa Những đêm đi trong những ngọn lửa đốt nhà dài từng cây số Bước lên những xác người và lao mình vào những lỗ châu mai lô cốt Tôi đã nhìn thấy chung quanh tất cả Những con người và con vật Dũng cảm và hèn nhát Cao quý và ti tiện Trung thực và bất lương Trong cả mùa xuân đời tôi Trong cả một cuộc chiến tranh giữ nước Tôi đã mất sắc da tuổi trẻ Nhưng một tôi đã rắn chắc lại rồi Mùa xuân không kịp nở Mãi trong tôi Những tháng ngày khát khao hy vọng.
Năm 1956, Văn Cao viết một bài thơ có tên là “Anh có nghe thấy không”. Bài thơ thể hiện nhiều tâm sự thất vọng với các chính sách của chính quyền Cộng Sản sau thời gian đấu tố, diệt văn hóa phong kiến và tư sản trong Cải cách Ruộng đất. Bài thơ thậm chí còn bị Xuân Diệu lên án là “lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì”:
Cửa đóng lại từ chín giờ Không một cuốn sách chờ đợi Dù những ngôi sao đang nở trên trời Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại
Tất cả hướng về biển Bọt cứ tan trên bãi cát xa Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Bao giờ nghe được bản tình ca Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật Bao giờ Bao giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của chúng ta Vẫn ngày ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại Trong những áo dài đen nham hiểm Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại Trong những tủ sách gia đình Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm Từng bước chân các cô gái Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối Mắt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm
Chúng nó còn ở lại Trong những tuổi bốn mươi Đang đi vào cuộc sống Như nấm mọc trên những thân gỗ mục
Người bán giấy cũ Đã hết những trang tiểu thuyết ế Những trang báo ngày xưa Đang bán đến những trang sách mới Những bài thơ mới nhất của anh
Anh muốn giơ tay lên mặt trời Để vui da mình hồng hồng sắc máu Mấy năm một điệu sáo Như giọng máy nước thâu đêm chảy
Chung quanh còn những người khôn ngoan Không có mồm Mắt không bao giờ nhìn thẳng
Những con mèo ngủ yên trên ghế Trong một cuộc dọn nhà
Những con sên chưa dám ló đầu ra Những cây leo càng ngày càng, tốt lá
Một nửa thế giới Một nửa tâm hồn Một nửa thế kỷ Chưa khai thác xong
Bây giờ không còn những tiểng nổ to Nhưng còn những tiếng rạn vỡ Có thể thu hết những khẩu súng phản động Nhưng vẫn còn Những khẩu súng đưa người tự tử.
Anh có nghe thấy không Chỗ nào cũng có tiếng Chưa nói lên
Những người của chúng ta Đang mờ mờ xuất hiện Le lói hy vọng Trên những cánh đồng lầy
Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá trị Đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời
Vào một cuộc đấu tranh mới Với những người không phải của chúng ta Anh có nghe thấy không
Vào một cuộc đấu tranh mới Để mở tung các cánh cửa sổ Mở tung các cửa bể Và tung ra hàng loạt hàng loạt Những con người thật của chúng ta.
Khi hai tờ Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, Văn Cao cũng giống như nhiều nghệ sĩ khác bị bắt đi học tập cải tạo chính trị vào năm 1958. Từ đó cái tên của Văn Cao không còn được nhắc đến trên báo chí nữa. Mặc dù ông vẫn kiếm sống bằng việc viết nhạc cho các vở kịch, các chương trình kỷ niệm, vẽ sân khấu, vẽ trang trí hộp diêm… nhưng các ca khúc của ông bị cấm biểu diễn chính thống tại miền Bắc dưới chế độ của nhà nước Cộng Sản. Tuy nhiên, các ca khúc của ông lại được biểu diễn rất phổ biến ở miền Nam bởi Thái Thanh, Ngọc Hạ, Hoàng Oanh… dù chưa có sự cho phép của tác giả. Thậm chí, ca khúc “Không quân Việt Nam” còn được lấy làm nhạc hiệu của lực lượng không quân Việt Nam Cộng Hòa.
Sau thắng lợi năm 1975, Văn Cao đã sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, nhưng ca khúc bị cho là đi ngược lại đường lối và chính sách của Đảng, do đó không được biểu diễn và phát hành. Nhưng nhờ ca khúc được dịch phần lời sang tiếng Nga và được phổ biến ở Nga mà ca khúc không bị quên lãng.
Phải đến năm 1980, nhờ chính sách Đổi mới của Nguyễn Văn Linh, các ca khúc của Văn Cao bắt đầu được biểu diễn trở lại. Năm 1981, một cuộc thi sáng tác Quốc ca được tổ chức nằm gạt “Tiến quân ca” của Văn Cao ra khỏi vị trí quan trọng trong lễ nghi của nhà nước Cộng Sản, tuy nhiên sau cùng, kết quả không được công bố và “Tiến Quân Ca” vẫn tiếp tục là Quốc ca cho đến ngày nay. Năm 1988, khi Hội nhà văn Việt Nam phục hồi tư cách cho nhiều văn nghệ sĩ trong vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, ông mới chính thức được xuất hiện trở lại. Ông xuất bản tập thơ “Lá” và các ấn phẩm âm nhạc cũng dần dần được in ấn trở lại.
Mặc dù là nhạc sĩ vĩ đại nhất trong số các nhạc sĩ gắn bó với chính quyền Cộng Sản nhưng Văn Cao chưa từng có một buổi biểu diễn toàn bộ các nhạc phẩm của riêng mình. Ước mơ của ông rất nhỏ nhoi, đó là được có được buổi biểu diễn ấy. Nhạc sĩ Đinh Tiến Dũng đã mở đầu bộ phim tư liệu về Văn Cao làm năm 1992 bằng chính ước mơ nhỏ nhoi ấy của ông.
Đến năm 1995, Văn Cao mất do căn bệnh ung thư phổi. Ông đã sống một cuộc đời với nhiều thăng trầm, chông chênh giữa những thái cực để rồi nhận ra điều bất biến đích thực chính là tình yêu, thứ tình yêu vừa khoảnh khắc lại vừa vĩnh cửu. Trong một bài thơ viết năm 1994, trong cơn bệnh nặng, trước khi qua đời, ông đã viết:
Không có hai mùa xuân trong một đời người Ôm những cây đời thay lá Một mùa xuân trong những chuỗi ngọc Sâu những tháng năm những giấc mơ khát vọng những niềm tin Không bao giờ thay đổi Sự vĩnh cửu của con người chỉ khao khát tình yêu Giữa anh và em Không gian nhỏ lại Thời gian khép lại Một mùa xuân Không có hai lần.
Ngay khi thông tin về việc Giáo sư Chu Hảo bị kỷ luật vì những cuốn sách có tư tưởng chính trị do NXB Tri Thức ấn hành thì lập tức một đợt sóng truyền thông rầm rộ trên Internet và người ta đua nhau đi ôm sách NXB Tri Thức về nhà. Họ khoe nhau những tủ sách ngập sách NXB Tri Thức, những bức ảnh chụp bác Chu Hảo. Có lẽ các siêu sao Việt Nam chẳng ai có bộ sưu tập ảnh nhiều góc độ như bác Chu Hảo đâu. Âu cũng là một chuyện thú vị! Điều ấy cho thấy xã hội ta đã “tự diễn biến” từ lâu rồi, và theo quy luật lượng chất thì có lẽ sắp có thay đổi về “chất” đến nơi. 😊
Người ta ca ngợi bác Chu Hảo nhiều cũng như tiếc nuối NXB Tri Thức, chen lẫn sự lo lắng về một tương lai không có sách “nghiêm túc” và “tiến bộ” để đọc nữa. Nhưng sau tất cả, tôi nghĩ, đó không phải điều bác Chu Hảo mong đợi.
Khi giáo sư Chu Hảo rủ Book Hunter về tổ chức sự kiện tại NXB Tri Thức, giáo sư đã tâm sự với tôi về ý tưởng của NXB. NXB được lấy ý tưởng từ tinh thần “khai dân trí” của cụ Phan Châu Trinh, và không chỉ có vậy, còn của cả hội Khai Trí Tiến Đức. Nếu so sánh về cách thức hoạt động của NXB Tri Thức thì tôi thấy rằng, bên trong, NXB tạo nên một hội Khai Trí Tiến Đức kiểu mới, và bên ngoài thì thực hiện “khai dân trí” theo cách cụ Phan. Có thể nhiều độc giả chưa hẳn đã đọc và hiểu hết các ý tưởng từ sách của NXB Tri Thức, nhưng tinh thần tri thức mà các đầu sách của NXB truyền tải thì vẫn ảnh hưởng một cách đáng kể. Nói một cách thị trường hơn, NXB Tri Thức đã tự định hình một phân khúc trong trị trường sách Việt Nam. Và hơn cả thế, điều đáng quý của NXB Tri Thức, đó là từ lâu, nơi đây trở thành một nơi tập trung những người ham mê tri thức, cùng làm việc để duy trì và truyền bá tri thức, và tôi tự hào là một người trong số ấy. Bởi vì để gìn giữ tinh thần tri thức không phải đơn giản là một công việc mà là một cuộc chiến, cuộc chiến chống lại một xã hội đang ngày càng coi rẻ tri thức, cuộc chiến để lấy lại vị thế cho những gì đã từng bị vùi dập bởi một thời mông muội. Đó chính là tinh thần của Khai Trí Tiến Đức và Phan Chu Trinh, cũng là tinh thần của nhiều thế hệ trí thức, và của rất nhiều trí thức độc lập đang nỗ lực hiện thực hóa trong xã hội.
Tôi quen nhiều nhóm trí thức độc lập có cùng phương châm hoạt động với NXB Tri Thức, nhưng NXB Tri Thức là một ví dụ điển hình cho sự thành công, dù rằng NXB cũng… nghèo lắm. À không, nói theo một cách khác, NXB Tri Thức giàu lắm, cái gì cũng có… trừ tiền. Những cuốn sách bị cấm tái bản không phải tất cả những gì quý báu nhất của NXB Tri Thức mà chỉ là… một phần nhỏ trong gia tài quý báu ấy. Thậm chí đó cũng không phải là giá trị cốt lõi mà NXB Tri Thức muốn truyền tải mà chỉ là một phần nhỏ trong các hệ thống tư tưởng mà NXB Tri Thức muốn giới thiệu với bạn đọc. Thế nên, tại sao phải lo lắng cho số phận của NXB Tri Thức hay cho số phận của việc truyền bá tri thức?
Bởi vì sau tất cả, NXB Tri Thức vẫn sẽ tiếp tục in các cuốn sách có chất lượng cao về học thuật để làm cơ sở nền tảng cho Việt Nam. Mà nếu chẳng may NXB Tri Thức bị đóng cửa thì các trí thức vẫn còn đó, họ sẽ vẫn tiếp tục viết sách, dịch sách, truyền bá tri thức theo cách này hay cách khác, và biết đâu lại chẳng lan rộng tới mức chẳng ban bệ nào trong chính quyền có thể kiểm soát được. Như thế, thứ quan trọng mà NXB Tri Thức để lại cho sau này chính là tinh thần tri thức chứ không phải những cuốn sách.
Tôi cũng chẳng biết làm gì để thể hiện sự ủng hộ của mình với NXB Tri Thức lúc này, bởi vì tôi không quen hô hào hay kêu gọi cho NXB Tri Thức, cũng không thể đổ xô chạy đến để ôm sách của NXB Tri Thức về tích trữ bởi vì trước nay Book Hunter vẫn làm thế. Tôi chỉ có thể tự hứa với bản thân là sẽ tiếp tục duy trì tinh thần trí thức ấy cho dù NXB Tri Thức trong tương lai có còn hoạt động nữa hay không. Và tôi tin, vẫn có rất nhiều trí thức trước giờ vẫn luôn nung nấu tinh thần ấy.
Hà Thủy Nguyên
– Giáo sư có thể chia sẻ bí quyết để có được hạnh phúc trong cuộc sống?
– Để cuộc sống thanh thản, tôi thường có 3 điều nhớ và 3 điều quên. Nhớ mình là người bình thường và mình có thể sai, không phải lúc nào mình cũng đúng. Mình luôn là mình, không sống bon chen với người khác.
Điều đầu tiên phải quên là quên tuổi tác. Tôi năm nay đã 70 tuổi nhưng cố quên là mình đã già. Thỉnh thoảng tôi vẫn đi lại nhanh nhẹn như thanh niên. Các cụ dạy rằng: “70 tuổi vẫn chưa già, 60 tuổi vẫn còn là trung niên”, tôi nghĩ mình vẫn đang ở độ tuổi trung niên. Điều thứ hai là quên bệnh tật, vì tôi quan niệm có quên bệnh tật mới sống vui vẻ được. Thứ ba là quên thù hận. Nếu có xích mích thù oán gì thì càng gỡ ra bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu.
Tôi nghĩ ai hay nghĩ xấu về người khác thì rất bất hạnh. Tôi là người nghiêm túc về giờ giấc, nhưng nếu ai đã hẹn với tôi mà đến trễ thì tôi nghĩ đơn giản rằng họ bận đột xuất nên lỡ hẹn với mình. Nghĩ vậy tôi thấy lòng mình thanh thản hơn.
Xin chúc các bạn có sự an lạc trong tinh thần để cảm thấy mình hạnh phúc!
(Trích GS Chu Hảo
trả lời phỏng vấn VnExpress, 8.1.2011)
Năm lớp 3, lần đầu tôi được biết đến tiểu thuyết chương hồi qua “Thủy hử”, “Tam quốc diễn nghĩa”, “Tây du ký”, “Hồng lâu mộng”… Thế giới kỳ vĩ của tiểu thuyết chương hồi đã đánh bật tất cả những cái đau nhè nhẹ của tiểu thuyết Pháp mà tôi mới đọc hồi ấy như “Không gia đình”, “Trà hoa nữ”, “Bá tước Monte Cristo”… Tôi say sưa nhiều năm trong thế giới ấy, đọc đi đọc lại cho tới khi đọc… Kim Dung.
Tôi còn nhớ đó là năm lớp 7, khi tôi bị tai nạn gẫy chân, lúc nào cũng ngồi một chỗ trong lớp. Mấy cậu bạn trai dấm dúi chia nhau tiền để thuê “Tiếu ngạo giang hồ” đọc, rồi chém gió có vẻ đắc chí lắm, tôi bèn đọc ké… và bị Kim Dung ám từ hồi ấy. Khỏi chân rồi, tôi lê la ra hàng thuê truyện cũ để đọc hết quyển này quyển khác của Kim Dung: “Thiên long bát bộ”, “Anh hùng xạ điêu”, “Thần điêu hiệp lữ”, “Ỷ thiên đồ long ký”, “Tuyết Sơn phi hồ”… và cuối cùng là “Lộc Đỉnh ký”. Thế là đi tong năm lớp 7 và lớp 8, chuyện học hành là phụ, Kim Dung là chính: những buổi trưa bán trú trùm chăn giả vờ ngủ trốn cô giáo chủ nhiệm để đọc, những buổi đêm trốn lên gác xép để không bị mẹ nghi ngờ là thức khuya “luyện chưởng”, những lúc trốn học thêm để ngồi lê la ngoài hàng thuê truyện tiết kiệm tiền đặt cọc… Bài giảng của cô giáo cố hiểu hết trên lớp, bài tập về nhà cố làm hết trong giờ ra chơi với giờ ăn trưa, để còn rảnh rang… đọc tiểu thuyết kiếm hiệp.
Đọc nhanh quá, miệt mài quá, ấy thế là đọc hết mất rồi… bèn tập làm Kim Dung. Lúc ấy, tôi dụ mấy đứa bạn cùng lớp cũng làm báo, cũng viết truyện kiếm hiệp. Báo của chúng tôi viết về tình hình của lớp, đăng bài viết và tranh vẽ của các bạn, và đương nhiên là có… tiểu thuyết kiếm hiệp do tôi viết. Hồi đó, tôi bắt đầu viết “Long Điểu tranh hùng” và đăng từng chương trên báo. Ấy thế mà báo cũng bán chạy. Nhưng viết “Long Điểu tranh hùng” rất khó, hồi đó tôi chưa biết nhiều về chính trị và quân sự, nên đành gác lại đó đến tận… bây giờ. Sau đó, tôi viết “Bát long nghĩa hiệp” (tên sách sau này được đổi thành “Điệu nhạc trần gian” để xuất bản cho dễ).
“Điệu nhạc trần gian” được viết theo thể loại tiểu thuyết chương hồi, cũng có tinh thần nghĩa hiệp và bảo vệ chính nghĩa, nhưng lấy bối cảnh lịch sử là thời nhà Lý ở nước ta. Tôi đã học ở Kim Dung cách thức xây dựng các nhân vật nam chính như Tiêu Phong, Đoàn Dự, Dương Qúa… chỉ riêng Lệnh Hồ Xung là chịu, không sao mà học được. Tôi còn học ở ông cách vận dụng các yếu tố lịch sử và văn hóa Á Đông để tạo không gian cho truyện. Chính nhờ nỗ lực ấy mà tôi tìm đọc đến tư tưởng Lão – Trang, lục lọi lịch sử Việt Nam, văn hóa tôn giáo và tâm linh của người Việt… ở trong thư viện Hà Nội. Tôi đã di dời từ cửa hàng thuê truyện ở lề đường vào thư viện như thế đó! Bố tôi cũng không tiếc tiền, tiếc công cho tôi mua một mớ sách và đưa tôi đi rất nhiều địa điểm lịch sử ở miền Bắc. Ông còn khuyến khích bảo tôi rằng nếu muốn viết truyện thì viết cho đến nơi đến chốn, chỉ cần vẫn… học sinh giỏi là được. Bố tôi còn bảo, ông sợ đọc Kim Dung lắm, vì đọc vào rồi thì không dứt ra được, chẳng làm được việc gì… thế nên khuyên tôi là… cứ viết đi. Bây giờ bố mất rồi, Kim Dung cũng mất rồi, và những kỷ niệm ngày đó lại trỗi dậy theo cách lạ lùng lắm. Tôi viết được 10 chương đầu tiên của “Điệu nhạc trần gian”, dầy khoảng 100 trang A4, bố đèo tôi đi khắp các nhà xuất bản ở Hà Nội, nhưng chẳng bên nào chịu nhận bản thảo. Họ đều khăng khăng bảo rằng sách không phải do tôi viết mà do bố tôi viết. Lúc ấy, tôi đã chán lắm rồi, nhưng vẫn tiếp tục viết bất chấp có được in hay không.
Thuở đó, tôi đã ý thức được rằng mình là người Việt… nên phải cố làm sao cho … khác Kim Dung. Đó thực sự là một cuộc vật lộn cho đến trang cuối cùng. Đến trang cuối của quyển sách, là vào năm tôi học lớp 10 thì tôi mới thở phào và nhận ra rằng ít nhiều mình cũng… khác Kim Dung một cách tự nhiên. Truyện của tôi, do hạn chế của tôi trong hiểu biết về võ thuật, nên các nhân vật đã được chế thành thần tiên, ma quỷ với phép thần thông. Và đương nhiên, giọng văn của một đứa trẻ mới lớn thì có cái non nớt ngây thơ, khác hẳn so với một nhà báo chính trị như Kim Dung. Đó, người ta bảo truyện tiên hiệp chỉ bắt đầu có từ “Tru tiên” (năm 2003), nhưng mà tôi đã viết tiên hiệp một cách vô ý từ năm 2000 rồi, chỉ là đến 2004 mới được xuất bản mà thôi.
Một cách kỳ diệu đưa đẩy, bản thảo đến tay nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy và nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Hai ông rất hứng thú với trường hợp của tôi và khuyến khích tôi … xuất bản. Khi cuốn sách được xuất bản thì cũng có thể nói là gây… hiện tượng bấy giờ. Các báo đều viết về tôi, có người còn gọi tôi là “Kim Dung Việt Nam”. Với cách gọi ấy, tôi thực sự chẳng biết nên vui hay nên buồn. Sau cùng thì hóa ra tôi vẫn thua Kim Dung rồi.
Từ ấy tôi không đọc kiếm hiệp nữa, và cũng tự xóa não mình cho quên phứt những cuốn tiểu thuyết chương hồi kinh điển. Tôi thực hiện một cuộc… “thoát Kim Dung”. Cũng không dễ! Ban đầu rất dễ bị lôi Kim Dung ra để so sánh với tiểu thuyết viết theo lối phương Tây, lôi triết lý phương Đông ra để … tranh luận với triết học châu Âu. Sau cùng thì quyết định là vứt tất! Xếp sách vở vào tủ sách, để lao vào đời, để “lăn lộn giang hồ”. Ấy thế mà lại thoát. Tôi bắt đầu khỏi được cái bệnh lôi tiêu chuẩn Á Đông ra để so sánh với giá trị này, giá trị kia, và đặc biệt là tôi đã có giọng văn khác hẳn cái thời “Điệu nhạc trần gian”. Chính lúc “thoát Kim Dung” ấy lại khiến tôi đọc lại Kim Dung với một con mắt khác. Tôi bắt đầu nhìn thấy tầm cỡ thật sự của ông, thấy được thế giới võ hiệp ông tạo nên như một thực tại siêu thực vẫn đang áp lên thực tại hiện đại. Thực tại ấy là nơi thỉnh thoảng khi tôi mệt mỏi với cuộc chiến giang hồ, có thể quay về tấu một khúc “Tiếu ngạo giang hồ”, có thể uống rượu sảng khoái cùng Tiêu Phong, có thể chọc phá thiên hạ cùng Châu Bá Thông, có thể đánh chén một bữa ngon lành cùng Hồng Thất Công… Sự thống khoái ấy, phi Kim Dung, chẳng nhà văn nào trên thế giới có thể đáp ứng cho tôi được. Nỗ lực “thoát Kim Dung” đó… thú vị thay, lại đưa tôi đến gần với Kim Dung hơn.
Tối qua nghe tin Kim Dung mất, tôi không tiếc thương ông lắm, vì từ năm 1972 đến giờ ông cũng chẳng viết thêm được cuốn sách nào… thậm chí còn sửa sang các cuốn tiểu thuyết của mình khiến sách… bớt hay đi. Với tôi, ông ấy chết từ lâu rồi. Nên ông mất, tôi mừng cho ông. Nhưng cái chết của Kim Dung nhắc lại cho tôi những kỷ niệm về ngày đầu viết lách của tôi, và nhắc tôi nhớ về bố tôi – người đã rất sợ đọc Kim Dung nhưng lại rất đắc chí khi thấy tôi yêu thích Kim Dung đến thế. Và tôi nhận ra, giờ đây, với tôi, tiểu thuyết Kim Dung còn là thực tại của ký ức về những gì đã qua đi nhưng dấu vết lại chẳng thể phai mờ.
Hà Thủy Nguyên
Mời các bạn đọc thêm bài viết ngắn về Tiểu thuyết Kim Dung của Hà Thủy Nguyên trên Tin Tức Việt Nam:
Dưới đây là bài trả lời phỏng vấn báo An ninh Thủ đô của nhà văn Hà Thủy Nguyên trong năm 2016 về những cuốn sách thuộc loại “khó đọc” của mình và gu đọc sách “dễ dãi” của độc giả trẻ hiện nay.
Phóng viên: Mai Anh
ANTD.VN – Lý giải về việc vì sao độc giả lại thích đọc những tác phẩm văn học theo kiểu “mỳ ăn liền”, nhà văn, nhà biên kịch Hà Thủy Nguyên – một trong những tác giả trẻ hiếm hoi theo đuổi đề tài dã sử cho rằng, điều này không khó hiểu vì “độc giả thế nào thì tác giả như thế”.
– PV: Mới đây (2016) người ta thấy chị ra mắt tập thơ “Mùa dã cổ” sau một loạt tác phẩm mang tính dã sử, rồi các kịch bản phim truyền hình. Vì sao có việc dấn thân này?
– Nhà văn Hà Thủy Nguyên: Thực ra tập thơ này được lên ý tưởng từ những năm 2005 cho đến quãng 2014-2015, tôi viết khá nhiều bài rồi lại ngắt quãng rồi lại viết. Sau cùng, tôi rút ra quyết định rằng đơn giản là mình cho ra một tập thơ coi như đánh dấu một giai đoạn của cuộc đời. Vậy thôi!
– Nhiều người nghĩ rằng chị ẩn mình vì đã hứng đủ “gạch đá” từ dư luận, nhất là sau khi bộ phim mà chị là nhà biên kịch – “Vòng nguyệt quế” lên sóng. Lúc đó, chị cảm thấy thế nào?
– Tôi còn nhớ khi bộ phim “Vòng nguyệt quế” lên sóng năm 2008, cứ trung bình mỗi ngày lại có một bài báo phê phán bộ phim. Phim này tôi viết về đời sống của nhà văn, nhà báo… nói chung là tầng lớp trí thức trong nước. Khi phim mới chiếu được 1 tập, có rất đông nhà văn, nhà báo nhảy vào “ném đá”, họ nói bộ phim sỉ nhục giới trí thức. Nhưng tôi nghĩ rằng phim mới chỉ phơi bày được khoảng 30% những gì mọi người thấy.
– Có vẻ như chị khá lận đận với sự nghiệp viết lách, nhất là khi cuốn sách thứ hai của chị “Cầm thư quán” cũng bị thu hồi sau khi ra mắt độc giả?
– Khi ra một cuốn sách, tôi thường không tổ chức truyền thông hay sự kiện ra mắt. Vì tôi muốn rằng khi sách ra, độc giả phải đọc sách của mình đã rồi sau đó mới bình luận, khen chê. Thời điểm “Cầm thư quán” phát hành cũng ít người biết đến nên tôi khá ngạc nhiên vì nó bị thu hồi.
Tôi không cho rằng việc cuốn sách của tôi không đến được với bạn đọc do những vấn đề tôi đề cập quá “mới mẻ” hay do thời thế, vì những tác giả có tiếng trước đây cũng đã viết truyện hư cấu lịch sử nhiều rồi.
Hiện nay (2018), Cầm Thư quán đã “tái xuất” sau 10 năm lận đận, click vào link:
– Một nhà văn trẻ lại gặp phải cú “sốc” như vậy, chị có nghĩ đến việc từ bỏ hay chuyển hướng, không viết văn nữa hay không?
– Lúc ấy tôi cũng từng bị chấn động và phân vân kiểu như tự hỏi: Mình có cần thiết phải viết văn hay không?
Nói thực, nếu không viết văn, tôi cũng có thể làm nhiều việc khác như truyền thông, biên tập đến viết sách, rồi viết kịch bản phim… Hơn nữa viết kịch bản phim thì được nhiều tiền hơn là viết văn (cười).
Nhưng cứ làm việc gì khác thì tôi lại chán và trong đầu lại nghĩ đến việc viết văn. Tôi “dật dờ” trong một thời gian khá dài. Khi tâm trạng, tôi lại viết một bài thơ, hay một bài phân tích nhưng không gửi đi đâu cả, chỉ giữ riêng cho mình thôi.
– Chị có cho rằng độc giả hiện nay dễ dãi không, khi những tác phẩm chất lượng tốt thì im hơi lặng tiếng còn những cuốn sách mang tính thị trường, viết theo kiểu “mỳ ăn liền” thì được độc giả săn đón?
– Tôi cho rằng trong giới văn trẻ vẫn có những người mà họ đau đáu những tác phẩm có giá trị. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng độc giả muốn như thế nào thì đòi hỏi những tác giả ấy phải “chiều” như thế.
Việc độc giả thích thú với những tác phẩm “dễ dãi” cũng là điều dễ hiểu. Khi dạy một số lớp cảm thụ văn chương, tôi lấy một số tác phẩm rất dễ hiểu của giai đoạn 1930-1945 nhưng một số em không hiểu được những từ ngữ cơ bản trong đó.
Điều này cho thấy rất khó để đòi hỏi những bạn trẻ phải đọc những tác phẩm được viết bằng ngôn ngữ đẹp, có nhiều ẩn dụ hoặc những văn bản ẩn chứa nhiều tri thức. Một trong những nguyên nhân nữa khiến những cuốn sách dù có giá trị nhưng không được độc giả đón nhận, đó là đời sống mà nhân vật trải nghiệm không phải là đời sống mà các bạn trẻ có. Bởi vậy họ không tò mò về những tác phẩm đó.
– Vậy cũng rất khó cho nhà văn lựa chọn xem mình viết cái gì, phải không ?
– Tôi thấy các nhà văn trẻ họ đều có suy nghĩ muốn viết hay thì phải đi theo xu hướng nào đó. Chẳng hạn viết theo một tác phẩm hàn lâm thì phải viết theo trường phái “hậu hiện đại”, hay nếu viết kiểu thị trường thì phải “xách ba lô và đi”.
Những cái đó chỉ là quy chuẩn của truyền thông, còn tôi nghĩ rằng, bất cứ ai cũng có câu chuyện để kể cho độc giả của mình, cái chính là họ có muốn và có dám kể hay không mà thôi.
Phật giáo đề xướng diệt Tham, diệt Sân, diệt Si, để tự tính hiển lộ, để có được bát nhã, để giác ngộ. Với con mắt của kẻ vẫn vướng vào bụi trần thì đó cũng là một loại Tham – Sân – Si. Diệt tất thảy những điên rồ cuồng loạn, bẩn thỉu thấp hèn trong con người nhưng những huyễn tưởng sẽ vẫn bay lượn trong thế giới tâm trí. Diệt ngay cả sự diệt ấy cũng là một loại khó khăn, bởi những điều thấp hèn trong phẩm chất con người giống như loài trùng biến hình, càng đánh vào chúng càng sinh sôi và biến tướng.
Tại thế tục, luôn có hai chiều kích cho bộ ba lầm lạc này:
Tham có hai loại: Một là bị kích động bởi lòng dục để thỏa mãn mọi nhu cầu của xác thịt, ví dụ như ăn phải cho nhiều, tiền phải kiếm cho đầy túi, tình dục phải cho thỏa thuê, chỗ ở phải dễ chịu, sống phải cho lâu… Cái tham này tồn tại là bởi mỗi chúng ta vẫn còn ở trong thân xác này và cần phải duy trì nó, thậm chí chúng ta còn muốn nhiều hơn cả sự sinh tồn. Hai là khao khát được khẳng định bản thân, được tham gia nhập cuộc, được cuộc đời biết đến. Lòng khao khát ấy chính là động lực sâu kín hơn để dẫn dắt mỗi người mong muốn những điều vượt trên sự cần thiết để duy trì thân xác.
Sân có hai loại: Một là do những tương tác của môi trường gây sự khó chịu cho thân xác khiến con người luôn phản ứng để đối kháng, cố gắng tìm một cảm giác dễ chịu. Bất cứ sự đau, ngứa, khó thở, mỏi mệt… đều là sự phản ứng lại những tác động của thế giới bên ngoài đang cố gắng hủy hoại sự sống thân xác của mỗi cá nhân. Sự khó chịu ấy sẽ gia tăng nếu ta vẫn tiếp tục tiếc nuối cảm giảm hoàn hảo và khỏe mạnh mà thân xác của ta đã trải nghiệm trước đó. Sự tương phản ấy càng làm gia tăng cơn khó chịu. Chung quy cũng do lòng tham của thân xác không được thỏa mãn. Lòng tham khẳng định bản thân cũng dẫn đến cái một phiên bản cao hơn của sân. Người ta sân hận khi vị trí mà người ta mong muốn ở cuộc đời không có được hoặc có rồi mà lại bị mất. Người ta không mấy khi tự hỏi bản thân xem sự khát khao khẳng định ấy có cần thiết hay không, mà chỉ bị bám víu theo một cái gì đó hư ảo đã được dựng nên.
Và bây giờ đến Si: Si, ở một chiều kích, chính là sự hư ảo ấy. Ở chiều kích thấp hơn, “si” là tình trạng hạn chế của nhận thức. Do con người bị giới hạn trong thân xác nên nhận thức của con người cũng bị thân xác trói buộc, mắt không thể nhìn xa, tai không thể nghe rõ,… não không thể xử lý một lượng rất lớn thông tin. Sự hạn chế này khiến cho lòng tham không dễ dàng gì thỏa mãn, khiến cho cảm giác khó chịu không dễ gì nguôi ngoai. Cái si được đẩy theo một chiều kích của tâm trí: những vọng tưởng hư ảo. Chúng được khoác lên nhiều mỹ từ: lý tưởng, đam mê, ước vọng, chứng nghiệm… nhiều lắm. Người ta nuôi các ảo giác này khi nhận ra rằng lòng tham là không thể thỏa mãn. Sự hư ảo này luôn được coi là cao quý hơn tất thảy, đại diện bởi chính nghĩa, thiên đường, tịnh độ, sự thanh khiết, sự thoát tục, sự thần tiên… bất cứ cái gì khiến cho con người không phải đối mặt và chấp nhận một sự thực rằng ta không là gì cả, thân xác của ta sẽ tan biến, linh hồn cả ta phải đối mặt với sự hư vô mênh mông không bờ bến.
Ở chiều kích của thân xác, Tham – Sân – Si khiến con người đơn giản là một sinh vật giống như bao nhiêu giống loài khác trong hệ sinh thái vĩ đại của Trái Đất. Ở chiều kích của tâm trí, con người tạo nên xã hội và xã hội vận hành theo bộ ba lầm lạc ấy. Xã hội là một chuỗi sai lầm và nỗ lực sửa sai, để rồi lại sai theo một cách khác. Tại sao chúng ta chỉ có thể sai và sửa sai? Không có cách nào khác hơn sao? Tại sao không thể thực sự đúng được một lần. Cái đúng hay chân lý chẳng qua cũng chỉ là một ảo vọng của đàn khỉ đi trong đêm đông lạnh giá tưởng lầm ánh sáng đom đóm chính là ngọn lửa sưởi ấm. Vươn tới chân lý, sự hướng thượng, buồn thay, cũng là một sự tuyệt vọng của loài người. Tôi nhận thấy, ẩn sâu trong mỗi tinh thần hướng thượng đều thoáng một cái buồn không thể diễn tả được. Cái buồn của sự cô độc và vô vọng.
Kẻ chạy theo điều hư ảo của thế gian, chấp nhận làm một ốc vít để vận hành hệ thống xã hội, họ không tuyệt vọng bởi vì họ đã nhốt mình trong ảo giác ấy, tuyệt đối không muốn thoát ra, kể cả khi thân xác đã chết. Đối với họ, thật sự chẳng biết nên đáng cười, đáng thương, đáng trách hay đáng khinh bỉ nữa. Định mệnh của họ là sai lầm và họ tìm thấy niềm vui trong sai lầm ấy. Nếu không chọn vừa lòng với sai lầm của mình, làm sao ta có thể vui vẻ mỉm cười, hạnh phúc và ngạo nghễ bước qua số phận?
Nhưng tôi yêu sự buồn và cô tịch của những kẻ hướng tới vô vọng kia. Trong vô vọng tuyệt đối, chúng ta bước tới sự mênh mông. Trong mênh mông ấy, sai hay đúng chẳng còn quan trọng và chân lý có hay không thì cũng thế mà thôi.
Nếu từ cõi mênh mông ấy, một lần, ta “hạ phàm” để chấp nhận mình như một cỗ máy sinh học, một phần tử của cấu trúc Tham – Sân -Si trong nhân giới, thì sao? Ta sẽ khinh miệt hay bám víu vào tất thảy để thoát khỏi sự vô vọng? Hay lại tiếc nhớ mênh mông? Chọn cho mình một ham muốn, một sự bức xúc và một lý tưởng để trở thành vai diễn, để chơi đùa trên sân khấu, nhưng sâu thẳm bên trong ý thức rằng mình đã từng vô vọng. Hoàn thành định mệnh trong vô vọng đòi hỏi nhiều định lực hơn bất cứ điều gì khác.
Cuộc đời tôi vô vọng hơn tất thảy và khoảnh khắc này tôi đang viết trong vô vọng.
Chỉ những tiếng vọng của tàng thức kêu gào điều tuyệt đối. Tham tuyệt đối là Không. Sân tuyệt đối là Không. Si tuyệt đối là Không. Nếu đi đến tận cùng của Tham Sân Si, bạn sẽ gặp tôi ở đó, ở Vô Vọng.