Home 2019 / page 9

Nhận thức bản thân hay chiếc mặt nạ hoàn hảo

Bản tính hay cá tính của một người là một cái gì đó rất mơ hồ trong định nghĩa. Tất cả loài người đều khó có thể nhận diện được đúng bản thể của mình, kể cả họ có là những nhà hiền triết hay các bậc chứng ngộ. Bản thân mình là ai? Điều gì đã định hình nên tâm trí của chúng ta? Cách chúng ta nghĩ về mình có thực sự trung thực hay đã bị tô vẽ theo một cơ chế nhận thức nào đó?… Những câu hỏi như vậy sẽ luôn khiến chúng ta cảm thấy bối rối về tính cá nhân của mình? Đã cả ngàn lần, tôi luôn băn khoăn về   mình có đang thực sự sống cuộc đời của mình hay không, hay đang sống cuộc đời của kẻ khác áp đặt lên mình – cái thứ mà chúng ta vẫn gọi là định mệnh. Nhưng thôi, bàn về số mệnh thì chúng ta sẽ đi vào một ngõ cụt khác. Bây giờ, tôi sẽ chỉ viết về vấn đề nhận thức bản thân.

Bởi vì “bản thân” là một thứ mơ hồ, nên “nhận thức bản thân” cũng là một hành trình đi tìm kho báu ở một vùng đất xa xôi nhưng không ai biết kho báu ấy thực sự là cái gì. Các trường phái tôn giáo tâm linh chân chính đều đưa ra rất nhiều những chỉ dẫn để hướng dẫn con người đi tìm bản thể hay bản tính của mình. Nếu có thể vượt qua khỏi các ảo giác về bản thân mình, càng đi, ta sẽ càng thấy hư vô. Và một cách kỳ diệu, các bậc chứng ngộ nhận thấy rằng con đường vào hư vô ấy lại là con đường đúng đắn. Họ đã thấy kho báu, nhưng họ không thể nói cho chúng ta biết kho báu ấy là gì, lại không thể cầm tay dắt chúng ta đi tới kho báu. Họ chỉ để lại bí quyết duy nhất của những nhà phiêu lưu chuyên nghiệp: Vứt dần những gì không cần thiết.

Vậy đấy, để bước trên con đường nhận thức bản thân, bạn phải vứt bỏ những cái tôi giả dối mà cộng đồng và chính chúng ta đã tạo nên. Hết lần này đến lần khác như thế, bạn thấy một phần của con người mình chết đi. Đó là những cá tính không còn cần thiết cho cuộc hành trình. Nhưng vứt bỏ cái tôi nào đó không cần thiết nữa không đồng nghĩa với phủ nhận quá khứ đã trải qua của bạn. Qúa khứ đã qua, dù tồi tệ hay hạnh phúc, chúng đều là những dữ liệu cho bản đồ dẫn đến kho báu của bạn. Một sai lầm lớn của những người bước trên con đường tâm linh đó là phủ nhận quá khứ của mình, coi quá khứ ấy là một thời mông muội, vô minh. Nhưng chúng ta xuống thế giới này không phải để thức tỉnh. Chúng ta xuống đây trong sự thiếu nhận thức để tận hưởng và dấn thân, nhưng rồi sẽ đến lúc, chúng ta học cách quay trở lại trạng thái sáng suốt để đánh giá, để ghi nhớ, và để chuẩn bị cho những cuộc dấn thân lớn hơn, những tận hưởng lớn hơn. Một người không nhớ quá khứ thì không thể nhận thức được bản thân mình, họ chỉ sống như con rối được giật dây bởi ai đó vô hình. Họ đã bị “tẩy não”, và được nhồi sọ về một con người mới – con người mà kẻ khác cố thuyết phục họ rằng đó mới là con người thật.

Tôi đã gặp nhiều người tu tập tâm linh lâu năm. Qúa khứ của họ là một chuỗi mờ ảo. Hoặc họ lẫn lộn về ký ức của mình, hoặc họ kể đi kể lại một câu chuyện đầy kịch tính đến nằm lòng với một giọng vô cảm. Những người ấy đã bị tẩy não. Họ không còn thật sự nhận thức được bản thân mình. Họ đang diễn vai là một người thức tỉnh và họ tin rằng họ thức tỉnh. Thế là, bất cứ chi tiết quá khứ nào chứng minh rằng họ cũng bình thường như những con người khác, hoặc tệ hơn thế, tầm thường đến mức khốn nạn, họ liền bỏ qua chúng hoặc cố tình phóng đại.

Tôi có quen một người Pháp tu tập tâm linh 20 năm và nổi tiếng ở Việt Nam với một khóa học về Lãnh đạo bản thân. Khóa học này là nguồn thu nhập chính của anh ta đồng thời cũng là cách anh ta tuyên truyền về các lý thuyết tâm linh của mình. Một phần rất quan trọng của khóa học đó là bài học về nhận thức bản thân. Sau khi làm một loạt trắc nghiệm để phân tích các thói quen và định kiến cá nhân, bạn sẽ được dẫn dắt rằng bạn là một người rất tốt đẹp, bạn là các giá trị hoàn hảo như yêu thương, dũng cảm, bình an…v…v… Đây là cách mà giáo phái Brahma Kumaris dạy đệ tử của họ và khóa học này được những người đệ tử xuất sắc nhất của giáo phái phát triển.  Cách đi này của họ đã truyền cảm hứng cho không ít các khóa học kỹ năng sống mà các doanh nghiệp tổ chức, dù rằng không bài bản bằng. (Đọc thêm về Brahma Kumaris tại đây: https://nghiencuutongiao.info/2017/05/31/brahma-kumaris-tu-con-duong-tam-linh-den-day-ky-nang-song/ ) Phải thừa nhận, cách nhận thức bản thân kiểu này rất thuyết phục. Nó thuyết phục bởi vì sau khi con người phải đối mặt với sự hư vô, với quá khứ bẩn thỉu của mình, họ cần một cái mặt nạ mới, một cái tôi mới được mạ vàng. Sự bẩn thỉu trong họ không mất đi mà được tô son điểm phấn bằng các đức hạnh thần thánh. Sự sợ hãi với hư vô đã đẩy họ trở thành những nô lệ vô nhân tính của mớ giáo lý sai lầm. Đây là sai lầm mà nhiều lớp dậy Thiền, nhiều giáo phái mới, hay thậm chí những tôn giáo lớn cổ xưa như Kito giáo, Tịnh độ tông… mắc phải. Đương nhiên, có thể đây chưa chắc đã sai lầm, mà có thể tôi đã sai lầm. Bởi vì, có khả năng lớn rằng họ những giáo phái ấy không muốn con người thức tỉnh, không muốn con người tự do mà  có một động cơ khác mang tính chính trị hoặc doanh thu hơn. Nhưng thôi, đó là việc của họ.

Khi đối mặt với hư vô, ta không còn biết chắc chắn rằng đâu là con người thật của ta nữa. Lúc này, ta sẽ đứng giữa hai lựa chọn: Hoặc tiếp tục đi vào hư vô ấy. Hoặc vẽ ra một con người tốt đẹp giả dối rồi đồng nhất con người ấy với bản thân. Đa số chọn ở lại với sự giả dối. Đi vào hư vô đòi hỏi nhiều dũng khí hơn bất cứ sự mạo hiểm nào. Bởi vì lúc ấy, ta tự trở nên xa lạ không phải chỉ với cộng đồng mà còn với cả chính mình. Nhưng đó là con đường đúng đắn của nhận thức bản thân.

Ừm… còn một vấn đề nữa rất trừu tượng mà những người rất thông minh thường mắc phải. Họ nhận thức được rằng không nên vẽ ra những cái tôi đức hạnh để nuôi dưỡng vị thế của mình trong cộng đồng. Họ nuôi một cái tôi khác tinh vi hơn. Cái tôi này khoác vỏ “Hư vô”. Họ coi họ là “Hư vô”, họ chọn cho mình lối sống vô vi, bất chấp tất cả. Họ thường đóng vai tiêu dao hoặc vai “trí tuệ điên”, như thể họ đã vượt xa khỏi thế giới tầm thường này. Đó cũng chỉ là một cái mặt nạ khác. Sai lầm của họ ở đâu? Đó là họ đã tự định nghĩa mình bằng chữ “Vô”. Chính điều ấy giới hạn hành động của họ trong những chuỗi phá chấp. Chấp vào phá chấp thì vẫn là chấp mà thôi. Ở đây, họ cũng đã hèn nhát bỏ hành trình đối mặt với hư vô mà tạo ra một thứ hư vô giả để vờ rằng mình đã đến đích, đã hoàn thành cuộc hành trình.

Nhận thức bản thân mình không biến chúng ta trở nên quyền năng hơn hay vĩ đại hơn. Nhận thức bản thân chỉ khiến bạn nhận ra những cái xích đang trói buộc bạn, những mặt nạ cuộc đời mà bạn tự đồng nhất. Vậy nên, nếu thấy chưa đủ dũng khí để đối mặt với hư vô, tốt nhất bạn cứ dấn thân và tận hưởng, thay vì mê muội chạy theo các ảo tưởng vĩ đại xa vời.

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 9

“Giặc xấu” bắt đầu tàn phá Hội An?

Bài viết lên án dự án Công viên Ấn tượng và chương trình thực cảnh Ký ức Hội An

Những ngày tháng 4 vừa qua, dư luận báo chí xôn xao về sự tàn phá môi trường và cảnh quan của dự án Công viên Ấn tượng và chương trình thực cảnh Ký ức Hội An trong khu vực Phố Cổ Hội An.

Ở bài viết này tôi sẽ không đề cập đến vấn đề pháp lý hay những nguy hại về môi trường mà bàn đến vấn đề bấy lâu nay chúng ta dường như đã bỏ quên trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam văn minh và hiện đại: Đó là tính thẩm mỹ của cảnh quan đô thị. 

So với những vấn đề khác thì vấn đề tính thẩm mỹ không được coi trọng bởi vì ở một quốc gia mà người dân còn có trình độ dân trí thấp và coi trọng miếng ăn hơn giá trị tinh thần thì đòi hỏi về cái đẹp vẫn là quá xa xỉ.

Tuy nhiên, nếu chúng ta thay đổi cái nhìn về cái đẹp, mà cụ thể hơn là tính thẩm mỹ trong cảnh quan đô thị, thì chúng ta sẽ thấy rằng vai trò chính trị của cái đẹp cũng quan trọng không kém các quyền tự do.

Một quốc gia, một dân tộc, một cộng đồng người không thể tạo ra các tác phẩm hay sản phẩm có tính thẩm mỹ cao thì quốc gia ấy, dân tộc ấy, cộng đồng ấy cho thấy một sự suy thoái về tinh thần và sự kém cỏi về trí tuệ, nói một cách khác đó là dấu hiệu cho thấy sự man rợ và lạc hậu.

Xã hội loài người đã từng chứng kiến sự thăng trầm của những nền văn minh rực rỡ, từ Ai Cập cổ đại, Hi Lạp và La Mã cổ đại, Trung Quốc cổ và trung đại, Kỷ nguyên vàng Islam, Phục Hưng ở Châu Âu…

Những gì còn lưu lại đến nay đều là những tạo vật đẹp đẽ mà những người nghệ sĩ đã dành nhiều tâm huyết để chế tác.

Động lực thúc đẩy sự sáng tạo của nghệ sĩ chính là một xã hội biết thưởng thức cái đẹp và tôn trọng cái đẹp. Những nền văn minh này đã lụi tàn theo thời gian do quy luật thành bại của lịch sử nhưng những dấu vết để lại với tính thẩm mỹ cao đều cho chúng ta thấy khả năng tư duy hoàn hảo, tinh thần trách nhiệm, sự chuyên nghiệp trong tài năng cá nhân, sự khai phóng tinh thần trong sáng tạo và cả tư tưởng thời đại của các tiền nhân.

Chẳng ai nhớ đến các tác phẩm hay các sản phẩm xấu xí và tệ hại. Sự xấu xí chỉ tồn tại trong những cộng đồng người man dã khi khả năng tư duy còn hạn chế và kỹ thuật còn thô sơ. Đây là những đặc điểm về thẩm mỹ điển hình trong các xã hội man dã. Những đồ tạo tác của xã hội man dã không phải vô dụng, chúng có giá trị về mặt khảo cổ. Rất ít trong số chúng có độ tinh xảo nhất định thì mới có thể được đánh giá là đẹp, và cái đẹp ấy là đại diện cho sự tiến bộ.

Nhưng lịch sử có những trớ trêu khó cưỡng, đó là trong một số hoàn cảnh, người ta đứng về phía cái xấu thay vì chọn cái đẹp. Để chế tác hoặc sáng tạo một tác phẩm hay một sản phẩm xấu, người ta không cần sự kỳ công, không cần sự tính toán kỹ lưỡng, không cần sự hiểu biết, không cần đạo đức nghề nghiệp. Họ chỉ cần sự tằn tiện trong chi phí sao cho lợi nhuận tối đa.

Bởi thế, họ chọn cái xấu không phải vì họ không nhận thức được rằng nó xấu mà đơn giản rằng nó tiện lợi cho họ. Nhưng tiếc rằng, đúng như nhà văn Oscar Wilde, nhà văn duy mĩ hàng đầu của Anh quốc đã kết luận:

“Người ta thường nói như thể cái đẹp đối nghịch với cái hữu dụng. Nhưng chẳng có gì đối nghịch với cái đẹp ngoại trừ cái xấu: mọi thứ đều hoặc là đẹp hoặc là xấu, và cái có ích luôn ở về phía cái đẹp, bởi vì sự điểm trang đẹp đẽ luôn ở về phía cái đẹp, bởi vì sự điểm trang đẹp đẽ cho một vật luôn là biểu hiện của tính năng và giá trị của vật đó.

Không người thợ nào trang trí đẹp cho một sản phẩm tồi, và bạn cũng không thể có những người thợ hoặc nghệ nhân tốt mà lại không có những thiết kế đẹp. Bạn nên chắc chắn về điều đó.

Nếu bạn có những thiết kế nghèo nàn và vô giá trị, dù trong nghề thủ công nào, bạn cũng sẽ chỉ có được những người thợ nghèo nàn và vô giá trị, nhưng khi bạn có những thiết kế đẹp đẽ và tao nhã, bạn sẽ có những người với đủ sức mạnh và trí tuệ làm việc cho mình.

Có được một thiết kế tốt, bạn sẽ có những người thợ làm việc không chỉ bằng đôi tay, mà bằng cả trái tim và khối óc nữa, ngược lại, bạn sẽ chỉ có được những kẻ ngu xuẩn và lười nhác làm việc mà thôi.”

(Trích tiểu luận “Nghệ thuật và thợ thủ công”. Bản dịch của Minh Hùng, đăng trên Book Hunter)

Ở thời đại của Oscar Wilde, nước Anh phải trải qua một thời kỳ phát triển của tư bản hoang dã trong cơn hưng phấn của Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất.

Sự phát triển công nghiệp nặng, sự lên ngôi của thói thẩm mỹ trọc phú đều là những đối tượng Oscar Wilde lên án trong các tiểu luận và bài giảng về nghệ thuật của mình.

Ông đã dành toàn bộ tài năng của mình để tạo ra các áng văn chương tuyệt đẹp với tinh thần duy mỹ để chống lại sự tràn lan của cái xấu xí trong xã hội Anh thế kỷ 19.

Trước Oscar Wilde, rất nhiều nhà thơ lãng mạn của Anh dưới thời Victorian như Lord Alfred Tennyson, William Wordsworth… cũng chọn tinh thần duy mỹ và sự ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên như một sứ mệnh chính trị của mình.

Họ từ chối các đặc quyền chính trị khi trở thành nhà thơ hoàng gia ca ngợi công cuộc đổi mới để quay về với sự cô độc cá nhân trong sự đắm chìm vào thế giới đẹp đẽ của ngôn từ. Đó là thái độ bất tuân dân sự của người duy mĩ.

Những nhà làm chính trị thực tiễn thường cho rằng các nhà thơ, nhà văn duy mỹ là những kẻ thoát ly thực tại nhưng trên thực tế, họ đang tiếp tục thông qua sáng tác cá nhân để nâng cao thị hiếu người dân. Bởi vì, chừng nào họ còn sáng tác những áng văn chương tuyệt mỹ thì chừng đó cái đẹp còn tồn tại.

Ở Việt Nam, đã từng có thời tính duy mĩ được coi trọng, tuy nhiên do yếu tố man dã vẫn còn phổ biến nên những thời đại rực này đã sớm lụi tàn ngay khi bắt đầu.

Lần gần nhất được ghi dấu trong giai đoạn đầu thế kỷ 20 ở các đô thị lớn. Xu hướng này chấm dứt khi phe Nghệ thuật vị nhân sinh chiếm ưu thế trong cuộc tranh luận những năm 1940s. Các cây bút của phong trào Nghệ thuật vị nhân sinh mà dẫn đầu là Hải Triều đã có một cuộc tổng tấn công vào các nhà văn, nhà thơ lãng mạn có xu hướng duy mĩ ở Việt Nam và đả kích họ là không thực tế và thoát li hiện thực.

Quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh này đã biến tướng thành một sự cổ vũ lối thẩm mỹ đại chúng xa rời cái đẹp còn kéo dài đến tận bây giờ. Và hậu quả là tính thẩm mỹ bị lơ là trong quy hoạch đô thị nói riêng và chiến lược phát triển văn hóa – giáo dục nói chung.

Đặc biệt, từ sau khi mở cửa kinh tế và cho phép các tập đoàn tư nhân được đầu tư kinh doanh bất động sản thì sự tàn phá thẩm mỹ xã hội lại còn nhanh chóng hơn và tệ hại hơn trước đó. Xu hướng tăng trưởng kinh tế để giúp đất nước phát triển đã tạo ra một xã hội tư bản hoang dã dựa trên một nền tảng tri thức thấp kém do chính sách phát triển văn hóa sai lầm.

Trường hợp Công viên Ấn tượng Hội An của tập đoàn Gami chỉ là một trong số những ví dụ của chuỗi tàn phá không biết bao giờ kết thúc mà công cuộc xây dựng kinh tế sau Đổi Mới đã gây ra.

Quá trình đô thị hoá bừa bãi, không, chính xác phải gọi là bê tông hoá đã tàn phá những cánh đồng quê êm ả, những vùng núi hùng vĩ, những con sông xanh mát, những bờ biển cát trắng, những cánh rừng huyền bí và cả những đô thị cổ còn lưu lại dấu vết của một thời văn minh đã xa…

Cái đẹp đã mất ở Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Sapa … và bây giờ liệu có mất thêm Hội An? Một công trình của Gami chỉ có thể tàn phá một góc Hội An nhưng nó sẽ là bắt đầu cho chuỗi tàn phá của các tập đoàn khi ai cũng có thể xây dựng vô tội vạ với sự lơ là của các cơ quan ban ngành quản lý.

Thế đấy, cùng với “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” thì người dân Việt Nam còn phải đương đầu với “giặc xấu”, thứ giặc mà trước giờ ít người nhận ra dù sự phát triển của loại giặc này đã và đang ngày một phổ biến do sự xuống cấp của giáo dục và sự tàn phá văn hoá trong nhiều thập kỷ liên tiếp.

Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của bản thân cũng như của xã hội là trách nhiệm vô cùng quan trọng của văn nghệ sĩ và trí thức để đưa xã hội Việt Nam hướng tới sự văn minh đồng thời gột rửa dần các tố chất man dã.

Bởi vì chỉ có văn nghệ sĩ và trí thức mới có cơ hội cũng như khả năng để tiếp cận tri thức và trang bị cho mình các nền tảng mỹ học đủ để thẩm định và sáng tạo cái đẹp.

Văn học nghệ thuật không đơn thuần chỉ là sự phát biểu cái tôi cá nhân của văn nghệ sĩ mà đó còn là một sự tạo dựng nền tảng thẩm mỹ cho xã hội mà trong đó văn nghệ sĩ trí thức được khám phá và hoàn thiện chính mình.

Home 2019 / page 9

Gửi các mẹ: Đọc sách có quan trọng đến thế?

Sáng nay lên mạng, một bức thư thống thiết của một bà mẹ gửi tới đứa con lười đọc sách của mình hiện lên Newsfeed của tôi.

Ngay khi click vào đọc, tôi đã biết được bức thư này có thể lâm li bi đát đến cỡ nào. Bởi vì, cứ thỉnh thoảng phong trào cổ vũ văn hóa đọc lại rộ lên những trò thú vị mà có lẽ chỉ Việt Nam mới có.

Nào thì chụp ảnh khoe tủ sách, nào thì chạy việt dã để nâng cao văn hóa đọc (chả hiểu liên quan ở đâu), nào thì người nổi tiếng chụp selfie cùng sách, nào thì thử thách đọc 10-20 cuốn sách một ngày…v…v…

Và đến giờ là một bức tâm thư (không rõ thật lòng hay không) của một bà mẹ mong muốn con mình hãy cầm cuốn sách lên và đọc.

Lợi ích và tác hại của sách đến đâu, khó có thể nói rõ hết được.

Ngày xưa, người Trung Quốc có cái tích kể về anh chàng thư sinh mọt sách, nhờ đọc sách mà thấy từ sách hiện ra cả nhà cửa, kho báu và gái đẹp.

Câu chuyện ấy đại diện cho giấc mơ của một lớp người từ xưa đến nay chỉ nhìn thấy khía cạnh thực dụng và vật chất của sách.

Trước hết, tôi phải “rào trước” rằng tôi không phải là một người ghét sách.

Từ nhỏ, tôi loanh quanh với thế giới sách vở, cũng chẳng dám nhận là thiên kinh vạn quyển hay bác học thâm sâu, nhưng cũng tự hào rằng mình nghe ai đó khoe sách thở vài câu là biết họ ở tầm cỡ nào của công phu đọc sách.

Thế nên, cứ mỗi khi đến cái mùa khoe sách, cùng lúc với cái mùa hội chợ sách giảm giá, tôi lại được phen vừa buồn cười vừa khó chịu, rồi cuối cùng chỉ biết thở dài với tất cả các chiêu trò truyền thông được đẩy lên.

Tôi không dám chắc bức thư của bà mẹ kia là một thao tác truyền thông hay là những lời thật lòng, nhưng tôi dám chắc đó là một phần của thứ trào lưu cổ vũ văn hóa đọc cực đoan trong nhiều năm gần đây.

Sách rất hữu dụng, sách ẩn chứa kho tàng tri thức của nhân loại, đúng vậy, nhưng sách không phải chìa khóa vạn năng trong cuộc sống, cũng không phải chìa khóa duy nhất cho cuộc sống.

Nếu đứa con của bà mẹ ấy lười đọc sách, hẳn nhiên bà mẹ ấy sẽ đổ lỗi cho giáo dục, cho môi trường Internet tệ hại, cho tính lười biếng của đứa con.

Bà mẹ ấy không chịu tìm hiểu và quan sát xem ẩn sâu trong tiềm thức của đứa bé, điều gì dẫn đến việc nó lười đọc sách. Nguyên nhân có thể đến từ rất nhiều. Hoặc là do nó quá mệt mỏi với chương trình học của nhà trường nên lúc về nó chỉ muốn được thư giãn, muốn thoát khỏi chữ nghĩa.

Hoặc là do nó thấy mẹ nó cuồng sách quá nên nó có phản ứng ngược để chứng minh bản thân rằng mình phải có một đời sống khác.

Hoặc là đơn giản hơn, tủ sách của bà mẹ sở hữu không có loại sách mà đứa bé cảm thấy phù hợp.

“Nếu ai đó hỏi mình rằng mình có thích sách không? Mình chắc chắn trả lời là KHÔNG. Mình thích sự hiểu biết”.

Tóm lại, có hàng trăm hàng ngàn lý do sâu xa hơn dẫn đến việc một đứa trẻ lười đọc sách. Những lời tâm thư ấy liệu có lọt vào tai đứa trẻ hay không? Hay nó chỉ cười khẩy một cái: “Lại trò truyền thông của mẹ” hay “Lại giọng điệu của mẹ”.

Sách, về bản chất, là một công cụ để lưu trữ thông tin. Thông tin đó có thể bao gồm kiến thức, các chiêm nghiệm, các cảm xúc. Thông tin đó có thể có hại hoặc có ích, thậm chí là vô dụng, tùy với từng người.

Nếu các thông tin đó không được lưu trữ trong sách mà được lưu trữ trên website, video, hay game… thì có vấn đề gì không nếu đứa trẻ không lựa chọn sách như một công cụ?

Mỗi công cụ đều tạo ra các kiểu tư duy khác nhau để tiếp nhận và xử lý thông tin. Tức là nếu bạn tiếp nhận qua website, video hay game sẽ có một lối tư duy khác với đọc qua sách (đặc biệt là sách giấy).

Nếu một đứa trẻ không thích đọc sách không có nghĩa rằng đời nó thế là vứt đi. Nó hoàn toàn có thể đạt được sự hiểu biết qua các công cụ khác.

Sách là một công cụ lưu trữ vĩ đại của nhân loại, nhưng không phải cái gì được lưu trong đó cũng là tinh hoa.

Cái thứ bà mẹ kia muốn nhồi vào đầu con mình qua sách, chẳng rõ là có giá trị hay toàn rác rưởi. Nếu là rác rưởi thì thật bất hạnh cho đứa trẻ. Nếu là tinh hoa thì cũng phải tùy căn cơ của đứa trẻ, đâu phải người nào cũng ăn được nhân sâm dù nhân sâm là thuốc quý.

Tôi luôn cho rằng người lớn không nên ép buộc con cái. Người lớn cũng có đầy đủ các kiểu ngu xuẩn và chúng ta chẳng có tư cách gì để dậy dỗ thế hệ đi sau.

Người lớn chỉ có thể chia sẻ các kinh nghiệm của bản thân và để con thế hệ sau tự quyết định. Những cuốn sách hay đều ghi chép lại kinh nghiệm của những người đi trước, chúng không dạy dỗ người khác phải làm gì.

Chúng ta đọc chúng cũng giống như những đứa trẻ tiếp nhận các kinh nghiệm của người đi trước vậy, chúng ta và những đứa trẻ đều có lựa chọn của riêng mình.

Vì thế, hãy để cho con trẻ cái quyền được sống theo cách của mình và hãy hiểu rõ hơn về lựa chọn của con cái.

Nếu đứa trẻ lựa chọn không đọc sách mà xem video, hãy hướng dẫn cho nó xem những video có giá trị.

Nếu nó lựa chọn chơi game, hãy giúp nó chọn những game lành mạnh thay vì cấm nó chơi game. Và nếu ông bố bà mẹ nào không đủ năng lực để giúp con lựa chọn thì đó là lúc nên học hỏi thêm cho bản thân mình.

Ừ, thế còn phong trào nâng cao văn hóa đọc thì sao, nó có giúp cho người ta đọc sách tốt hơn không?

Nó có thể kích thích lượng mua sách tăng lên, nhưng nó không giúp người ta mở mang trí não hơn.

Không phải tôi không muốn ngày càng có nhiều người đọc sách có chất lượng, mà là việc này không cưỡng ép bằng truyền thông được.

Để giải quyết việc nâng cao văn hóa đọc thì dễ thôi, chừng nào các NXB có trách nhiệm hơn trong việc chọn bản thảo, chừng nào các tác giả có trách nhiệm với chữ nghĩa của mình, thì lúc ấy chất lượng độc giả cũng được nâng cao.

Còn nếu không thì thà mù chữ còn hơn đọc sách nhảm!

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 9

Giáo dục Việt Nam, sai lầm bởi mặc thời đại xô đẩy

Trong 10 năm gần đây, ngành giáo dục tại Việt Nam gặp phải nhiều sự lên án: từ chương trình học nặng nề thiếu thực tế, đến đề thi thiếu tính chuyên môn, sách giáo khoa có nhiều sai phạm, giáo viên ý thức kém… Mới đây, sự việc 231 cái tát lại càng dấy lên sự lo lắng về một nền giáo dục đang còn lạc hậu so với thế giới. Nhiều bài viết đã chỉ ra những điểm yếu kém cũng như đã lý giải nhiều nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu này, tuy nhiên, các bài viết thường chỉ đưa ra các nguyên nhân trực tiếp.

Trong bài viết này, tôi muốn đề cập đến một khía cạnh khác, đó là thế đứng của giáo dục Việt Nam – một thế đứng chập chờn giữa những giao thoa về mô hình giáo dục, để rồi không thể đưa ra một chiến lược phát triển tổng thể trong tương lai, mà mặc cho sự xô đẩy của thời đại.

Truyền thống một nền giáo dục bị động

Một nền giáo dục bị xô đẩy bởi thời đại không phải chỉ là câu chuyện đương đại ở Việt Nam. Nhìn lại lịch sử, ta có thể dễ dàng nhận thấy liên tục trong 2000 năm, người Việt hiếm khi nào tự chọn cho mình một hướng giáo dục phù hợp với các đặc tính của dân tộc, mà chỉ sao chép một cách thụ động từ sự giáo dục mang tính cưỡng chế do các chính quyền đô hộ.

Cho đến nay, các sử gia chưa chứng minh được cách thức giáo dục trước khi nhà Hán đô hộ nước ta, nhưng nền tảng Nho giáo do các đô hộ sứ người Hán áp đặt đã trở thành sự lựa chọn mặc nhiên trong suốt chiều dài lịch sử phong kiến nước ta. Chính quyền các triều đại phong kiến dường như không mấy để tâm đến việc giao lưu tri thức với các nền văn hóa khác. Điều này rất khác biệt, thậm chí với Trung Quốc, vốn được xem như bản mẫu để Đại Việt học tập theo. Thậm chí, ý chí học tập không thể sánh với các nước Á Đông khác như Nhật Bản và Triều Tiên (thời phong kiến). Nhật Bản và Triều Tiên (thời phong kiến) mặc dù cũng tiếp thu Nho giáo nhưng họ không để mình rơi vào thế bị động mà chủ động nghiên cứu, học hỏi, khảo sát và chọn lựa các yếu tố tốt cho phát triển dân tộc. Vậy nên, cùng từ một nguồn ảnh hưởng nhưng các nước Á Đông nhưng nước ta, ngay cả trong thời kỳ độc lập, lại tiếp thu một loại Nho giáo khắc nghiệt, thiên nhiều về nghi lễ và giáo điều để làm tư tưởng

Đến thời Pháp thuộc, cơn bão phương Tây đã đánh bật vị trí thống trị của Nho giáo trên toàn bộ xã hội và thay vào đó một nền giáo dục kiểu mới: giáo dục phổ thông và phổ cập. Nền giáo dục này không phải một nền giáo dục lâu đời ở phương Tây mà chỉ mới xuất hiện trong thời kỳ công nghiệp. Tính đến nay, tuổi thọ của nền giáo dục phổ thông phổ cập mới chỉ 200 năm. Chính hệ thống giáo dục này cũng được chính quyền nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam lựa chọn để tạo ra những “công dân mới”, đúng như tôn chỉ của mô hình giáo dục phổ thông phổ cập khi mới ra đời.  Nếu tư tưởng giáo dục Nho giáo chủ trương tạo ra các Nho sinh để “tải đạo” thì mô hình giáo dục phổ thông và phổ cập ngay từ cốt lõi đã hướng tới việc tạo ra những người công dân làm việc trong các công xưởng và văn phòng phục vụ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, mô hình giáo dục phổ thông và phổ cập ở phương Tây đã có những bước tiến rất xa về thành tựu nhờ vào kho tri thức khổng lồ được tích trữ trong nhiều nghìn năm lịch sử và một truyền thống học thuật lâu đời. Đây lại chính là thành phần mà Việt Nam không hề tiếp thu trong quá trình ứng dựng chương trình giáo dục phổ thông và phổ cập.

Như vậy, sự bị động trong việc tiếp thu hai mô hình giáo dục lớn, một phương đông cổ xưa và một phương tây hiện đại, đã khiến cho chúng ta không tiếp thu được những yếu tố xuất sắc nhất, mà ngược lại chỉ sao chép được các công thức cứng nhắc và lấy đó như tiêu chuẩn của nền giáo dục. Trong khi đó, một làn sóng giáo dục kiểu mới của thời đại công nghệ cao đã thành hình trên thế giới và Việt Nam sẵn sàng tiếp nhận dù chưa đủ các cơ sở căn bản về cơ sở vật chất cũng như chuyên gia trong các chuyên ngành. Một hậu quả dễ nhận thấy đó là giáo dục lập tức bị rơi vào tình trạng “loạn chuẩn”.

Không gặp nhau ở đỉnh cao mà chỉ giao thoa sự lạc hậu

Mọi mô hình giáo dục một khi đã được áp dụng rộng rãi luôn có những điểm ưu việt và những hạn chế. Các quốc gia có nền giáo dục phát triển luôn biết cách kết hợp các điểm ưu việt phù hợp với tình trạng của quốc gia, giống như trường hợp của Nhật và Hà Lan; hoặc cho phép nhiều mô hình được song song tồn tại và chuyển biến giống như Mỹ và Tây Âu. Còn các quốc gia chỉ biết khiên cưỡng sao chép đóng kín trong một mô hình lại dễ dàng xảy ra sự chồng lấn lên nhau giữa các giao thoa giữa giáo dục kiểu cũ và giáo dục kiểu mới mà tình trạng giáo dục Việt Nam chính là một ví dụ điển hình.

Mô hình giáo dục phương Tây hiện đại theo kiểu phổ thông và phổ cập vốn dĩ là một mô hình giúp người học nhanh chóng có được các kỹ năng và kiến thức toàn diện phục vụ đời sống hiện đại, thế nhưng ở Việt Nam, các kỹ năng thực tế không được quan tâm. Thay vì đó, cách dạy và học từ cấp 1 cho đến đại học vẫn theo lối giáo điều của mô hình Nho giáo, tức là thày đọc trò chép và thi cử theo lối thuộc lòng. Thay vì thói quen tư duy theo quy trình, một kết quả dễ nhận thấy của nền giáo dục phổ thông phổ cập thì các học sinh và sinh viên ở Việt Nam khi ra trường dễ bị rơi vào lối tư duy rập khuôn, bắt chước và thiếu chủ động khi bắt nhịp vào quy trình làm việc của xã hội hiện đại.  Thâm chí, tình trạng thầy cô giáo thích quát mắng hoặc bạo hành học trò cũng là do những tàn dư lạc hậu của mô hình Nho giáo vốn quen “gõ đầu trẻ” gây ra dù rõ ràng chúng ta đang ở trong một nền giáo dục hiện đại mà quyền trẻ em là vấn đề được coi trọng… Tình trạng này không phải lỗi của mô hình giáo dục Nho giáo hay mô hình phổ thông phổ cập, mà là do sự bị động đã trở thành cố hữu ở nước ta trong suốt hai ngàn năm lịch sử. Và ngay cả khi các mô hình giáo dục đương đại khác du nhập vào Việt Nam thì các mô hình ấy vẫn không hề giúp Việt Nam cải thiện tình trạng giáo dục. Mọi sự cải cách dù lớn hay nhỏ đều không đến từ sự chủ động mà đến từ sự bị động thì đều lãng phí tiền bạc, nhân lực và gây ra các xáo trộn đối với học sinh – sinh viên nói riêng cũng như toàn bộ xã hội nói chung.

Những thực trạng tồi tệ của nền giáo dục như tham nhũng, năng lực cán bộ giảng dạy yếu kém, điều kiện vật chất không đầy đủ, đạo đức học đường xuống cấp, chương trình học lạc hậu… tất cả, theo tôi đều là biểu hiện của một nền giáo dục chắp vá được tạo bởi phần lạc hậu nhất của các mô hình giáo dục lớn. Chừng nào, Việt Nam không thể đưa ra một chiến lược giáo dục thực thụ dựa trên các khảo sát của những chuyên gia hàng đầu để tạo ra một hệ thống giáo dục vừa căn bản, vừa phù hợp với thực tiễn của thời đại, vừa tôn trọng học sinh – sinh viên, lại vừa dựa trên các lợi thế của Việt Nam thì chừng ấy, nền giáo dục Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục trì trệ như hiện nay. Tuy nhiên, việc đưa ra một chiến lược lâu dài không phải việc dễ dàng, không đơn giản là các cuộc cải cách hàng loạt vội vã, mà đòi hỏi sự nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ, kỹ lưỡng không chỉ các mô hình giáo dục và văn hóa của thế giới mà cả các đặc tính văn hóa của người Việt.

Hà Thủy Nguyên

Bài đã đăng trên báo Pháp Luật Việt Nam

Home 2019 / page 9

Người trẻ muốn làm việc tốt cần quên những thứ học ở trường đi

Học, thi cử, rồi lại học, cho đến khi có được bằng cấp, và khi đi làm, những điều học được ở nhà trường không hẳn là thích hợp với yêu cầu công việc thực tiễn. Đây vốn không phải là một thực tế quá gây shock với người Việt Nam.

Mỗi người Việt chúng ta đều chấp nhận thực tế ấy như một chân lý hiển nhiên và miễn là con cái chúng ta cố học để có đủ các bằng cấp, điều kiện thiết yếu để xin việc, thì bất kể việc chúng không đủ kỹ năng để đi làm, cũng đều được chấp nhận. Điều này dẫn đến kết quả là hết thế hệ này kế tiếp thế hệ khác những lực lượng trẻ thiếu thốn các kỹ năng căn bản để sinh tồn trong xã hội đương đại. Và đương nhiên, không tránh khỏi sự tụt lùi trong việc tạo ra một đời sống có chất lượng cao mà mỗi người đều mong muốn.

Trước hết, chúng ta phải xác định rõ với nhau rằng, hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông và phổ cập không nên chỉ là cách thức để đào tạo ra những cỗ máy chỉ biết làm việc kiếm tiền.

Hệ thống giáo dục cần phải cung cấp những nhận thức toàn diện bao gồm ý thức công dân, kỹ năng tương tác xã hội, kỹ năng làm việc, kỹ năng tư duy và thỏa mãn các nhu cầu kiến thức của mỗi người trẻ. Bây giờ chúng ta sẽ cùng xem xét đến các khía cạnh mà tôi vừa đề cập:

Mỗi đứa trẻ lớn lên, đều sẽ trở thành mỗi công dân. Và mỗi công dân cần biết gì? Họ cần biết về quyền và trách nhiệm của người dân trong xã hội, biết các kỹ năng hành chính căn bản. Bất kể trở thành ai trong xã hội thì vai trò đầu tiên của mỗi người đều là một công dân. Và sẽ thật tệ hại khi một công dân không biết đầy đủ về quyền và trách nhiệm của mình.

Môn giáo dục công dân ở Việt Nam, xét về mặt giáo trình đã có một bước tiến đáng kể trong việc đưa các vấn đề quyền và trách nhiệm của công dân vào chương trình học. Tuy nhiên, những gì học sinh học được là lý thuyết. Ngay chính trong môi trường học đường, những thực hành thiết yếu về quyền và trách nhiệm của ban giám hiệu, thầy cô, học trò, phụ huynh… đều không hề có. Điều này dẫn đến sự gia tăng bạo lực học đường và những xung đột giữa nhà trường và gia đình mà gần đây báo chí thường nhắc đến.

Thứ những đứa trẻ cần học, theo tôi, không phải chỉ đơn giản là những bài học đạo đức giáo điều, mà là ý thức tôn trọng pháp luật mà mỗi người trưởng thành xung quanh chúng cũng đều phải thấm nhuần.

Ở một khía cạnh khác, mềm mại hơn, chính là tương tác xã hội giữa người với người. Việc lúc nào cũng chăm chỉ lên lớp và phải hòa đồng với cộng đồng chung không hề giúp cho mỗi đứa trẻ trở nên tử tế hơn hay có tính người hơn.

Thậm chí, áp lực hòa nhập mà các nhà trường đang cố áp đặt lên mỗi cá nhân cũng đã lỗi thời so với thời đại mà yếu tố cá nhân được đặc biệt coi trọng như ngày nay. Áp lực này chỉ khiến cho những mâu thuẫn theo lối tẩy chay ngày càng gia tăng, và hơn thế nữa, hệ thống giáo dục không giúp học sinh, sinh viên tương tác mà biến họ thành các cỗ máy vận hành theo tập thể.

Kỹ năng làm việc, kỹ năng tư duy và các nhu cầu kiến thức là những gì dễ nhận thấy nhất ở hệ thống giáo dục của chúng ta. Trong suốt quá trình học ở bậc phổ thông, học sinh chỉ được học những kiến thức trong Sách giáo khoa theo lối thầy đọc trò chép và mỗi học trò phải cố gắng làm sao để hoàn thành các bài thi rồi tốt nghiệp. Việc này chiếm quá nhiều thời gian của một đứa trẻ. Chúng phải học chính khoảng 4-5 tiếng, rồi sau đó phải học phụ đạo khoảng 3-4 tiếng. Như vậy, một đứa trẻ phải mài đũng quần trên lớp từ 7 đến 9 tiếng, cứ như người lớn đi làm công ăn lương. Đó là còn chưa kể những lịch học dầy đặc ở nhà riêng của các giáo viên choán hết cả thời gian cá nhân.

Thực tế là, nếu những đứa trẻ không thể đạt mục tiêu điểm chác mà chúng mong muốn bằng việc tập trung học trong quãng thời gian học chính (chứ không phải bao gồm cả phụ đạo, học thêm, và học ở nhà) thì lỗi là do cách thiết kế chương trình học và trình độ giáo viên chứ không phải lỗi tại những đứa trẻ.

Tôi xin được nói thẳng, chương trình học phụ đạo là một hình thức giam cầm học sinh ở trường để bù lấp cho sự quá tải của một chương trình học thiết kế thiếu tính giáo dục, sự kém cỏi của giáo viên, và sự thờ ơ của phụ huynh trong việc giúp những đứa con có được kiến thức và kỹ năng hữu ích.

Tại sao phải mất chừng ấy thời gian để giam cầm những đứa trẻ trong bốn bức tường trong khi chúng có thể học hỏi từ Internet, các thư viện, các cộng đồng sở thích… Tình trạng này có giảm bớt khi trở thành sinh viên, nhưng các sinh viên vốn đã được đào tạo suốt 12 năm trong một môi trường hạn hẹp lại không thể thích ứng được với việc chuyển tiếp từ lối học phổ thông sang lối học đại học vốn cần tập trung vào các kỹ năng làm việc. Và ngay cả vậy, thì các kỹ năng này cũng lỗi thời nhanh chóng trong một xã hội mà cái mới được tạo ra từng ngày.

Nhà trường, với sự chậm tiến như tôi đã đề cập ở trên, thực sự đã trở thành một lực cản lớn đối với xã hội. Nhà trường, đáng lý phải là nơi tạo ra những công dân tốt, những nhân tài sẵn sàng cống hiến cho xã hội thì lại ở mãi trong ảo tưởng các thành tích số lượng học sinh giỏi và giáo viên dạy giỏi. Và thật nực cười, khi một đứa trẻ bước vào đời, muốn làm việc tốt, lại cần… quên những gì được học ở trường đi.

Hà Thủy Nguyên
Bài đã đăng trên Pháp Luật Việt Nam Online

Home 2019 / page 9

Soi trọc phú (3) Đã dốt còn ghét chữ

Chẳng biết từ bao giờ, các trọc phú lại nuôi một lòng chán ghét với chữ nghĩa, có lẽ là từ… ngàn xưa rồi. Bởi vì có chữ nghĩa vào đầu, hay nói cách khác là có kiến thức, thì các trọc phú sẽ cảm thấy khó kiếm tiền hơn. Làm sao có thể xây những tòa cao ốc vô tội vạ nếu biết lấn biển, san núi, chặt rừng… có thể gây ra hậu quả gì… Làm sao có thể ngang nhiên bán thực phẩm bẩn nếu biết hết những hậu quả thực phẩm bẩn có thể gây ra với người tiêu dùng… Làm sao có thể dễ dàng làm việc xấu nếu biết rằng đó là xấu.

Dốt nát là điều kiện căn bản để để các trọc phú đeo đuổi giấc mộng làm giàu không giới hạn của mình. Họ chỉ cần duy trì tình trạng dốt nát và đắp lên đó các mỹ từ như “làm giàu cho đất nước”, “giúp cải thiện vật chất xã hội”… hay “vượt khó”… đại loại thế. Sự dốt nát giúp họ không tự đặt câu hỏi với bản thân, và sẵn sàng cãi cày cãi cối với mọi góp ý về cách làm bẩn thỉu của mình. Để duy trì sự dốt nát, họ đương nhiên phải chối bỏ mọi thứ được gọi là … “kiến thức” hay “tri thức”, chối bỏ tới mức khinh miệt đám người có chữ nghĩa.

Đợt rồi, Book Hunter bọn tôi đang tất tả chuẩn bị để phát hành 1 cuốn sách có tên là “Sự chiến thắng của đô thị” (tác giả Edward Gleaser). Cuốn sách này bàn nhiều về các mô hình quy hoạch đô thị hiện đại và các vấn đề của chúng. Sách được viết dễ hiểu chứ không quá học thuật. Tôi cho rằng với trình độ không được cao lắm của các đại gia bất động sản chắc cũng đọc được cuốn này. Thế là, chúng tôi gọi điện cho một chú em. Cậu này còn trẻ nhưng đã sớm thành đại gia ngành xây dựng, chi nhánh toàn quốc, tiền tiêu như nước, lại suốt ngày mồm năm miệng mười: “Anh chị cần em giúp đỡ gì thì cứ gọi em, em giúp”. Mỗi lần cậu ấy mời vợ chồng tôi đi ăn uống nhậu nhẹt, ít thì 1-2 triệu, nhiều thì cả chục triệu. Việc in sách không được dư dả lắm, lại được ông em sẵn sàng hứa hẹn giúp đỡ, sẵn sàng vứt cả triệu vào bàn nhậu mà không tiếc, nên vợ chồng tôi liền ngỏ lời xin hỗ trợ funding. Tiền in quyển sách rất cần thiết cho dân xây dựng ấy, cộng lại chắc bằng 2 bữa tiệc, đã thế sau khi sách in xong chúng tôi sẽ đưa tên tập đoàn non trẻ của cậu ấy vào trong sách như một nhà hảo tâm yêu tri thức. Đó cũng là một cách truyền thông chẳng mất mấy tiền, lại sang trọng. Nhưng không, khi cậu ấy chỉ trả lời rằng bây giờ giới xây dựng với bất động sản có ai đọc sách đâu. Rồi đòi hướng dẫn chúng tôi về cách kinh doanh. Tôi cho rằng loại trọc phú từ trẻ đến già theo cái lối này… phổ biến lắm. Mời chúng tôi nhậu nhẹt không tiếc, nhưng in sách ấy hả, tăng thêm kiến thức ấy hả… quên đi!

Nhà chồng tôi còn có một ông đại gia Thanh Hóa. Ông này thời Việt Nam mới vào WTO, nhờ biết trọ trẹ mấy câu tiếng Anh, nên thường đứng giữa thu mua máy cắt kính và bán cho Eurowindow. Lâu dần, thành nhà giàu, giàu rồi thường thích tụ tập đám em họ để giúp các em làm giàu như ông ấy. Các em họ phải chúc tụng rượu mỗi khi tiệc tùng. Đương nhiên, nhà tôi không hành xử theo cái lối ấy, tiệc tùng chẳng bao giờ chúc rượu ai. Ông anh họ tức lắm, liền cả buổi ngồi chửi bọn đọc sách là vô dụng, chả biết làm gì, chả biết kiếm tiền.

Một lần khác tôi được mời ghé qua Vinpearl Nam Hội An. Đó thực sự là một thảm họa quy hoạch của Vingroup. Giống như nhiều đại gia bất động sản khác, ông Phạm Nhật Vượng cũng cứ đển Vinpearl Nam Hội An lấn biển Cửa Đại, làm hỏng hết cảnh quan. Vinpearl Nam Hội An là một công trình tổ hợp resort, khu vui chơi, khu làng văn hóa Việt… Khoan hẵng bàn đến kiến trúc xấu tệ hại của khu resort và khu vui chơi, tôi chỉ xin được nói về khu làng văn hóa Việt. Đó là một sự lố bịch. Người ta đưa tất cả các mô hình nhà cả các dân tộc và vùng miền ra giữa bãi biển đã bị bê tông hóa, rồi nói đó là… giữ gìn bản sắc dân tộc. Người ta dẹp làng chài ven vùng biển miền Trung này với những nét đặc thù để thay bằng một loạt các mô hình không có sức sống của văn hóa Việt. Những người thiết kế khu làng văn hóa này (cho phép được giấu tên), theo như tôi được biết thì chẳng ai có chuyên môn gì về nghiên cứu văn hóa cũng như kiến trúc cả. Sau khi tôi phàn nàn về cách “yêu Việt Nam” của Vin thì có người nói với tôi là không sao cả, khách vẫn tới ầm ầm ấy mà, chẳng ai quan tâm đâu.

Mô hình dựng thành Cổ Loa ở Vinpearl Nam Hội An (trông giống cái gì nhỉ)

(2 hình ảnh chụp tại Vinpearl Nam Hội An. Hình 1 là mô phỏng thành Cổ Loa, hình 2 là ảnh chụp khu mô phỏng nhà của các dân tộc thiểu số Việt Nam)

Những loại trọc phú như tôi vừa kể trên nhan nhản khắp các vùng miền của Việt Nam, từ thành phố lớn đến thành phố nhỏ. Họ đưa người ở quê lên, vào làm trong công ty hoặc tập đoàn của họ, và lan truyền sự dốt nát ấy tới các nhân viên của họ. Họ tự nhủ với nhau, kiến thức chẳng bằng kinh nghiệm thương trường của họ. Nên chỉ có kinh nghiệm làm giàu là có thể giàu được, biết nhiều có để làm gì đâu. Đương nhiên rồi, vì những người có hiểu biết đâu dễ bán thân cho trọc phú để tiếp tay tàn phá từng mảnh đất, từng nét văn hóa. Mà để có thể yên tâm kiếm tiền từ trọc phú, các nhân viên này dần dần cũng phải duy trì tình trạng dốt nát của mình, họ phải “cai chữ” một cách vừa tự nguyện vừa không tự nguyện. Có như thế, mới an phận trước mọi sự ngu dốt của ông chủ.

Nhóm Book Hunter của tôi có một bạn, có bằng cao học, tiếng Anh và tiếng Pháp đủ cả. Chưa kiếm được việc làm thích hợp nên cũng đăng ký đi dậy tiếng Anh cho một trung tâm luyện IELTS cũng đông học viên lắm. Đọc giáo trình xong, thấy giáo trình sai nhiều quá, trong lúc dậy có nhắc các học viên về lỗi sai của giáo trình rồi cũng góp ý cho giám đốc. Thế là liền bị đuổi việc. Thế đấy, trọc phú ấy mà, chẳng ai thích bị chỉ trích là ngu đâu, dù dốt nát rõ rệt ra rồi. Nếu họ thừa nhận bản thân dốt nát thì chả hóa ra Việt Nam thành đế chế của lũ dốt hay sao? Như thế thì còn vênh vang được với ai nữa.

Theo tôi thấy rằng đế chế của các trọc phú dốt nát này không thể tồn tại được lâu, nếu chính quyền Việt Nam thắt chặt bằng các quy định chặt chẽ về chuyên môn sâu. Tuy nhiên, một thực tế cản trở đó là, Việt Nam chẳng có nhiều chuyên gia đến thế để đưa ra một quy định chặt chẽ để kiểm soát các trọc phú. Và cứ cho là nếu có đủ chuyên gia, thì liệu các trọc phú có dễ dàng để chuyên gia đưa ra quy định hay không? Tôi e là khó!

Thế nên, những người như chúng tôi, chỉ có thể tự cứu mình khỏi trọc phú bằng cách, không dùng hàng của họ, không đi làm cho họ và không trở thành họ. Được như vậy cũng đủ tốt lắm rồi!

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 9

SOI TRỌC PHÚ (2): Hệ sinh thái giàu bẩn

Ở bài (1) của chùm bài “Soi trọc phú” với tên “Họ là ai và vì sao là họ”, tôi đã có nhắc đến việc hệ thống trọc phú giờ đây đã trở thành một hệ sinh thái. Hệ sinh thái tức là sao? Tức là mỗi cá thể trong hệ thống ấy vừa triệt hạ nhau, vừa nương tựa vào nhau mà sống theo mối quan hệ cộng sinh. Bất cứ một thành phần cá biệt nào muốn gia nhập vào hệ sinh thái tiền bẩn này, mà không chịu “tiến hóa” để “bẩn” như toàn bộ hệ thống, thì ắt là sẽ bị triệt tiêu, hoặc may ra thì phát triển một cách còi cọc.

Đương nhiên, tôi không có đủ thống kê số liệu về sự đào thải với những thứ “thiếu bẩn” mà hệ sinh thái trọc phú đang thực hiện, thế nên, tôi sẽ chỉ những câu chuyện mà tôi biết.

Tôi là một người gắn bó với sách (chứ chả dám nhận là yêu sách, tình yêu nó ảo lắm), thế nên những ngóc ngách của thị trường sách, tôi cũng có “duyên” được biết đến. Và tôi đã viết hẳn một chùm bài về“Thị trường sách Việt Nam, hiện chùm bài vẫn đang dang dở, nhưng cũng đủ để các độc giả biết ít nhiều về thực trạng của thị trường này. Ở đây, tôi sẽ tóm gọn lại mấy ý liên quan đến thị trường sách:

Mọi đơn vị xuất bản sách (dù là nhà nước hay tư nhân) phải dìm chi phí của tác giả và dịch giả xuống thấp nhất có thể và tăng chi phí phát hành. Mọi cuốn sách bán ra phải giảm giá kịch sàn để thu hút độc giả hám rẻ xông vào mua. Mọi cơ sở phân phối hay còn gọi là phát hành sách đều đua nhau ép giá đơn vị xuất bản để lấy chiết khấu rẻ nhất, rồi sắp xếp sách lộn xộn không có hệ thống sao cho thượng vàng với hạ cám phải đồng hạng với nhau (đương nhiên, sách nào có chiết khấu tốt cho nhà phân phối thì sẽ được để ở vị trí tiện lợi, còn không ấy hả, quên đi nhé!). Thế là, tác giả và dịch giả viết lách qua loa để lấy số lượng bù chất lượng. Truyền thông sách ấy hả? Hiếm hoi lắm mới có phê bình công tâm nhé, còn lại là công nghệ PR. Còn chưa kể đến biết bao chiêu trò sách in lậu, sách trốn thuế, ăn cắp bản quyền, ăn chặn tiền tác giả và dịch giả… Có thế mới giàu được ạ!

Nếu bạn cố gắng xuất bản một cuốn sách có chất lượng nội dung tốt, kỹ lưỡng, chi trả phần nhiều chi phí cho nội dung thay vì cho phân phối, bạn sẽ gặp khó khăn đủ điều: Nào thì chẳng cơ sở phân phối nào nhận sách của bạn. Nào thì một lượng lớn khách mua hám rẻ (chỉ chờ khuyến mại) sẽ quay lưng với bạn. Nào thì một dàn nick clone (mà mình khá chắc là do bên xuất bản hoặc phát hành sách nào đó không vừa lòng với cách đi hợp lý này) sẽ phá thối, nói xấu, chê bai sản phẩm mà bạn tung ra thị trường. Và nếu không may nữa, bạn không có mối quan hệ tốt với truyền thông, không có một kênh thông tin riêng, không có một cộng đồng (dù nhỏ thôi) để lên tiếng bảo vệ mình, thì bạn chắc chắn sẽ bị dìm đến không ngóc đầu lên được. Và nếu bạn chẳng giàu nhanh như những kẻ buôn sách kia, hẳn bạn sẽ bị coi là… không biết kinh doanh. Thôi đành!

Ở một thị trường khác mà tôi biết ít hơn, nhưng cũng gọi là có góp mặt, đó là nông nghiệp sạch. Để làm nông nghiệp sạch ở một quốc gia có mật độ ô nhiễm cao như Việt Nam, thật sự là một khó khăn. Nhưng để sạch được, chi phí cho sản xuất sẽ cao ngất ngưởng và đương nhiên, doanh nghiệp làm nông sẽ lãi rất thấp. Trong khi ấy, nông nghiệp bẩn vẫn thuốc trừ sâu, hóa chất nguy hại, và còn chưa kể đến môi trường thiếu tiêu chuẩn an toàn… thì dễ rồi, toàn tập đoàn lớn với tài sản vô biên cả! Sản phẩm của họ giá rẻ vượt trội để choán chỗ và thay thế cho sản phẩm sạch trên mọi kệ hàng từ tạp hóa đến siêu thị, từ hàng cóc ven đường cho đến nhà hàng sang chảnh. Làm nông nghiệp sạch thì khó đủ điều. Lãi đã ít, phân phối khó, lại không bảo quản được lâu, và cứ thế thì giàu được khó lắm. Biết bao người làm nông nghiệp sạch đã phá sản, bao nhiêu người chán nản, và biết bao nhiêu người giảm bớt độ “sạch” đi để tăng độ “bẩn” cho dễ sinh tồn.

Các cụ có câu “phi thương bất phú”, nhưng “thương” bây giờ chưa đủ”, phải “trọc” thì mới “phú” được. Chẳng biết từ bao giờ, khái niệm “thương” là phải gắn với việc làm ăn bẩn thỉu: làm sản xuất thì phải ăn bớt nguyên liệu, độn xấu vào tốt; làm dịch vụ thì phải ăn chặn, ép giá, trốn thuế; làm khai thác thì phải đào bất chấp hậu quả; buôn tiền thì phải biết mua chuộc truyền thông và dư luận để tăng hạ giá trị theo ý thích… “Thương” từ ý nghĩa tích lũy và trao đổi tài sản, đã dần dần trở thành lừa lọc và dối trá để trục lợi cho bản thân.

Đến đây, chắc nhiều người cười tôi là ngây thơ, vì họ tin rằng phải giả dối thì mới kiếm được nhiều tiền. Những người này quả đã bị lòng tham che mắt. Tôi sẽ kể một câu chuyện khác, về một thời đại khác mới gần đây thôi.

Chả là hồi năm 2016, tôi có dịp nói chuyện với gia tộc họ Phó buôn thuốc bắc nổi tiếng một thời ở phố Lãn Ông. Tôi được nghe câu chuyện “làm giàu” của nhà họ Phó ở những năm đầu thế kỷ 20.

Cụ Phó Đức Tiến, cụ tổ thứ mười của gia tộc này, vì gia cảnh khốn khó, phải lên phố Phúc Kiến (tức phố Lãn Ông) buôn bán thuốc Bắc. Năm 23 tuổi ông đã tậu được nhà ở phố Phúc Kiến, năm 35 tuổi thì đã rất giàu có, theo như gia phả ghi lại thì bấy giờ cụ đã “nghiễm nhiên thành một ông vua trong nghề buôn thuốc Bắc ở Hà Nội”. Tại sao cụ lại giàu nhanh như vậy? Không phải bởi vì cụ tham của ăn bớt, mà vì chữ tín. Khi cụ còn đang khốn khó, có một lần, một tiệm thuốc của Hongkong gửi nhầm đơn hàng cho cụ, thay vì gửi lô thuốc tam thất thì lại gửi một lô rất lớn linh chi và nhân sâm. Lô thuốc quý ấy có giá trị rất cao, giá mà cụ cứ giữ lại thì cũng giàu nứt đố rồi, thừa tiền để vương giả. Nhưng thay vì đó, cụ liên lạc với bên Hongkong vào yêu cầu họ nhận lại lô hàng. Bên Hongkong rất cảm động, nên cho cụ phân phối độc quyền rất nhiều thuốc quý ở Việt Nam. Đó là lý do cụ Phó Đức Tiến ở tuổi thanh niên đã có thể trở thành “ông vua thuốc Bắc” ở kinh thành. Người con kế thừa việc kinh doanh của cụ là cụ Phó Gia Tường đã ngày một phát triển sản nghiệp trong Nam ngoài Bắc, còn hỗ trợ tiền để in sách, sửa sang đền Ngọc Sơn, xây dựng đình Thủy Tạ để văn nhân trí thức tới ngâm vịnh và bàn bạc việc giang sơn… Con cái của cụ, cụ cũng dậy dỗ cốt sao giữ lấy cái đức, chứ không lấy lẽ thịnh suy sang hèn mà bận tâm. Tiếc rằng, thế sự bãi biển nương dâu, thời hoàng kim của họ Phó đã qua sau Cải cách ruộng đất. Phố Phúc Kiến ngày nay không còn là xưởng thuốc của nhà họ Phó, và gần như người họ Phó không còn giữ được nghề thuốc, nhưng họ vẫn hiền lành như xưa, cam phận sống trong ngõ hẻm phố cổ và giữ vẻ phong lưu còn sót lại của dân Hà thành.

Mỗi lần nghĩ về gia tộc họ Phó, lòng tôi luôn xen rất nhiều tiếc nuối. Đã từng có thời nước ta có những người nhà giàu như thế. Sự suy tàn của họ tính đến nay còn chưa được 100 năm, mà sao đã thấy xa như truyền thuyết. Thế mới hiểu được cái ngậm ngùi trong hai câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

“Lối xưa xe cũ hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”

Chữ tín trong thương trường giờ đây vẫn là một cái gì đó xa lạ, có khi nực cười. Và thương nhân biết giữ chữ tín, cũng có thói quen văn nhã khác hẳn đám trọc phú chỉ chăm lo cho cái mẽ mà vẫn lòi đuôi trọc phú.

Quay lại với hệ sinh thái trọc phú ngày nay, tôi có thể tạm kê ra mấy tầng trọc phú như sau:

–  Bề thế nhất hẳn phải là các đại gia bất động sản, khai thác mỏ, khu công nghiệp. Họ chiếm đất, xây công trình, đào xới tài nguyên thiên nhiên nhiều tới mức gây ô nhiễm môi trường, phá hoại cân bằng sinh thái tự nhiên, phá hoại cảnh quan, hủy hoại văn hóa địa phương… Mà họ khôn lắm nhé, chiếm đất là phải chiếm nơi có phong thủy đắc địa, đồ dùng trong nhà không phải kim loại quý hiếm thì cũng gỗ quý nguyên khối, ăn thịt là phải động vật hiếm còn tươi sống bắt trong rừng ra… Đừng hỏi tại sao đất trống đồi trọc, lũ lụt triền miên, bụi bẩn tung trời… Nếu xét về độ tàn phá, thì nhóm trọc phú này là tội lớn nhất. Đó là còn chưa kể đến các tội như cướp đất của dân, bóc lột nhân công giá rẻ khá là phổ biến, nhưng mà thôi, dân Việt ta kể cũng hiền, đã quen với cảnh “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan” thì giờ có thêm lũ cướp trọc phú này cũng có sao đâu. Các đại gia trọc phú này là các anh lớn, các titan cai quản thượng tầng của giới trọc phú. Bởi không có họ thì lấy đâu ra  nguyên nhiên liệu, ra nhà ở, khu du lịch vui chơi giải trí nhảm …v…v… để nuôi các trọc phú khác.

–  Thứ nữa là đến đám buôn tiền. Buôn tiền kể ra thì cũng không có gì xấu. Tiền ngoài chức năng để giao dịch ra thì giờ đây cũng là một loại sản phẩm, và nó có thời giá. Người buôn tiền dựa vào sự khác biệt trong thời giá này mà hoặc là giàu to hoặc là phá sản. Buôn tiền, suy cho cùng cũng chẳng khác nào buôn các thứ khác. Người giỏi tính toán xác suất sẽ đo được thời gian, còn không thì chỉ biết cầu trời cầu Phật phù hộ. Nhưng đời nào người ta an phận thế. Người ta phải tự tạo ra thời giá bằng tin đồn, bằng scandal, bằng công nghệ PR… ôi thôi đủ cả chiêu trò. Đương nhiên, tất cả các thủ thuật ấy vẫn có thể tạm chấp nhận được. Nhưng mà khi buôn tiền trở thành một nghề để sống thì vô tình nó trở thành một dung môi cho đám người lười biếng, ăn không ngồi rồi lao vào kiếm tiền nhanh mà chẳng cần nghề ngỗng gì. Kiếm tiền nhanh thì tiêu nhanh, mà tiêu nhanh thì thường tiêu ngu, tiêu ngu lại chỉ béo lũ sản xuất bẩn mà thôi.

–  Các đại gia sản xuất bẩn nhiều nhan nhản vô kể, ở đủ mọi ngành nghề, bao trọn mọi khía cạnh của đời sống chúng ta đang có. Họ nhiều tới mức mà ta có cảm tưởng như thiếu họ thì ta không thể nào mà sống nổi. Cái sự bẩn của họ thì tôi đã nói ở trên rồi, thiết nghĩ không cần nói ở đây thêm nữa.

–  Các ngành dịch vụ thì tốt xấu lẫn lộn lắm, nhưng mà xấu nhiều hơn tốt. Thường các ngành dịch vụ tốt thì thuần túy là phục vụ khách hàng thôi, còn những ngành đòi hỏi phải thêm tí… nội dung như truyền thông, nhà hàng – khách sạn, … thì thế nào cũng có trò bẩn bựa. Bẩn bựa thường đến từ việc nhân sự quá ngu dốt nhưng lại được nắm vị trí then chốt như quản lý nội dung, quản lý kỹ thuật, hay thiết kế, hay đầu bếp… chẳng hạn. Thế là dịch vụ chẳng đâu vào đâu. Nhưng mà chả sao, yêu cầu của dân Việt căn bản là thấp; xem truyền hình hay báo chí thì cứ ồn ào, nhảm nhí là được, còn nhà cửa thì cứ có điều hòa và chăn gối sạch sẽ là Okie,… chả cần biết thế nào là hay là đẹp! Giá rẻ, có khuyến mãi nữa thì nhất rồi! Bẩn của những ngành kiểu này, buồn thay, lại đến từ sự ngu dốt. Mà khách hàng dùng mãi dịch vụ kém kém rồi, dùng thứ tối ưu hơn, đẹp đẽ hơn, hay ho hơn, chắc gì đã dùng nổi.

–  Hệ thống tuyên truyền tính trọc phú là một yếu tố rất quan trọng trong hệ sinh thái này. Hệ thống này muôn hình muôn vẻ và biến chuyển không ngừng, mục đích là để lôi kéo nhiều người tham gia vào hệ sinh thái trọc phú hơn. Trước đây, hệ thống này chỉ có tính chất truyền miệng. Tức là mấy ông bà trọc phú trong lúc cỗ bàn, vỗ bụng vểnh râu (ông) hay ưỡn ẹo khua môi múa mép (bà) để khuyên bảo người này người kia là phải nhơ bẩn như họ. Rồi họ gia ơn cho người ở quê, đưa người cùng quê lên làm việc cho mình, đào tạo đồng hương trở thành con zombie mang lại tài sản cho họ. Những người quê mới lên tỉnh, dần dần tạp nhiễm các thói xấu ấy, rồi ước mơ được như ông chủ, dần dần, họ chưa giàu nhưng đã ô trọc mất rồi. Sau này có thêm các sách dạy làm giàu, rồi các cộng đồng doanh nhân có niềm tin bất diệt rằng họ là những kẻ cứu rỗi xã hội khỏi cơn đói nghèo, rồi truyền thông… Tinh tế hơn, họ dùng hàng hiệu đắt tiền (mà chả cần biết giá trị thực của sản phẩm) để cố phân biệt mình với những người không hàng hiệu, cố tự huyễn rằng mình đã bước chân vào một đẳng cấp khác – giới nhà giàu. Đây chỉ là những cái vỏ để che đậy sự yếu hèn, mặc cảm bên trong. Và hơn bất cứ ai khác, một khi đã bước chân vào giới trọc phú, người ta sẽ quý trọng cái vỏ hơn là chính bản thân mình. Đám tuyên truyền chuyên nghiệp cho hệ thống này cũng biết cách lắm, cứ đánh vào tâm lý thích chứng minh đẳng cấp bằng cái vỏ này, mà tâng giá, mà moi cho đến nơi đến chốn túi tiền của đám trọc phú đồng hạng.

–  Hệ thống tham nhũng cả ở cõi dương và cõi âm: Đương nhiên, để làm tiền bẩn đến thế, không thể phủ nhận sự tiếp tay của các quan chức tham nhũng. Họ nhận tiền của trọc phú, mắt nhắm mắt mở cho qua mọi chiêu trò bẩn thỉu, thậm chí còn là công cụ để triệt hạ các đối thủ. Tương tự như vậy, các thần Phật được thờ cúng ở chùa chiền, đền đài giờ đây cũng chẳng khác nào quan tham nhũng. Nghe nói ở đâu cầu thiêng lắm, được lộc lắm, là các trọc phú cho đến đám học đòi đều lao đến xin phúc, xin lộc. Chả biết thần Phật có thật sự gánh hết tham – sân – si ấy hay không chứ nơi linh thiêng bây giờ thực sự đã trở thành ngành dịch vụ buôn may bán rủi. Cao cấp hơn, có vài trọc phú cũng tu thiền tu Phật, thở vài hơi ra là nói giọng cao đạo giảng giải. Mượn ý của Osho, nói gọn lại là, ngày xưa họ nói về tiền thì giờ họ nói về thiền, có khác gì nhau đâu. Tất thảy đều là những lời tự xoa dịu, với niềm hi vọng rằng thiền và Phật hay những thứ tương tự có thể giúp họ rửa sạch tội lỗi đã giúp họ có được tiền tài kia. Thậm chí, tu tập như thế, giúp họ có năng lượng tốt, và năng lượng tốt sẽ kêu gọi nhiều tiền về hơn cho họ!

Thôi, nhưng mà dù sao cũng cảm ơn các trọc phú. Nhờ có họ, tôi có cái để so sánh, để nhận ra rằng ở đời còn có nhiều việc phải làm. Nếu không, cái kẻ lười biếng và thiếu ý chí như tôi lại mang tiếng “Ăn no rồi lại nằm khoèo/Nghe giục trống chèo vác bụng đi xem”.

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 9

Đêm nhạt nhẽo bốc mùi

Đêm nhạt rượu nhạt cà phê nhạt lời điên loạn
Mùi thế gian tàn bay
Tôi nồng mùi tôi thành lời
Đứt
Gãy
Nhạt nhẽo vê lờ

Mùi tôi
Mùi thế gian đớn đau tích mủ
Tôi đều nhận lấy riêng mình
Tôi đã quá quen với nỗi đau
Êm dịu xa đâu?
Tôi nhận quá nhiều nỗi đau
Và nào biết
Đâu là nỗi đau của chính mình?

Mùi tôi
Mùi đêm
Mùi tinh sạch thần tiên
Những tên điên vô xác thịt
Khát thèm tục lụy chẳng nên hồn
Tục lụy nồng hơi cám dỗ
Ơi thần tiên
Hỡi tên điên
Đọa
Trong hớp rượu này

Tôi chẳng thấy mùi tôi
Trong một đêm ma thuật
Ma thuật ánh trăng
Ma thuật gió về
Nghi lễ của những tên hề
Khặc khặc cười tí sặc
Sặc nước non
Sặc thế sự
Sặc thay thời đổi đại
Sặc điên điên dại dại
Này hề, có thấy tôi cười không?

Tôi nào phải mùi tôi
Còn các người như bầy chó đánh hơi
Cứ lần theo dấu vết
Các người buồn cười không?
Tôi đang buồn cười
Mà cười là gì nhỉ?
Vẫn nhạt như đêm

Rượu suông
Cà phê suông
Thơ tôi suông
Đây là bài thơ không tâm trạng
Chẳng điệu vần
Còn mặt tôi thì ngẫn
Với trò hề thế nhân.

 

Hà Thủy Nguyên

Sau một ngày nói quá nhiều trên facebook

Home 2019 / page 9

Sầu đêm mưa

Ta rầu mưa chẳng thành cơn
Có ai cô đơn như ta
Bên ô cửa tủi hờn chết lịm
Thế gian đã nhen mùa thảm bại
Vị tầm thường mặn chát đầu môi
Bên thềm chẳng giọt mưa rơi
Mà ta ướt đầm sương tóc

Ta đã mơ những mùa thanh vắng
Vắng lặng này mênh mông
Ta trôi tựa dòng sông
In bóng
Một cõi không

Họ lãng quên ta
Như lãng quên sầu thương
Những tên hề chèo nghênh ngang chẳng màng mặt nạ
Muôn màu
Ta là tông màu nhạt
Giấu mặt hồ mây
Nơi tên hề chèo vô vọng với
Í éo lời bỡn cợt cũ mèm
Cơn say lèm nhèm quên vô vọng

Kìa mưa không tiếng động
Chỉ thế gian buồn như ta
Bên hồ lơi sóng nước
Và mây buông
Và mây buông
Quên một khắc mỉm cười

Ô kìa tõm mặt ai rơi

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 9

Hoa lan nở trong mơ

Đêm rớt mưa tràn
Nhành lan bung nở
Ta vào mơ

Tóc mây vương vất tửu lầu
Trăng ở đâu
Thi nhân xác đã bạc màu

Một nhành lan, một nhành lan
Đọng cõi vô âm
Ta khe khẽ hát thầm

Một bài ca, một tình yêu
Mưa sao buồn nhiều
Đôi bóng cô đơn gác hẹp

Có những mùa thật đẹp đã qua đi
Lan ướp hàng mi sầu
Loài người buồn những đâu đâu

Tửu lầu nay đã đổ
Và đêm vụn vỡ
Còn ta mơ
…một giấc không mơ…

 

Hà Thủy Nguyên