Home 2017 Tháng Năm

Luận về “Hiểu” và “Biết”

“Bây giờ toàn những người chỉ biết mà không hiểu” hay “Người Việt Nam không hiểu cái gì sâu cả, chỉ toàn biết sơ sơ”… những nhận xét như vậy đã trở thành một điệp khúc của những người than thở về sự xuống cấp của văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa thời đại Internet nói chung. Điệp khúc ấy khiến tôi phải dừng lại và suy nghĩ, đâu là mối quan hệ giữa “Hiểu” và “Biết”?

Ý nghĩ đầu tiên khi bước chân vào dòng suy nghĩ này đó là câu thành ngữ của người Trung Hoa: “Họa hổ, họa bì, nan họa cốt/ Tri nhân, tri diện, bất tri tâm” (Có nghĩa là: “Vẽ hổ, vẽ da, khó vẽ xương/ Biết người, biết mặt, không biết lòng”. Từ “Biết” tiếng Hán là “tri”. Người Á Đông rất coi trọng sự “biết”. Có một sự khác biệt lớn về cấp độ nhận thức giữa “kiến thức” (những điều trông thấy) và “tri thức” (những điều đã đạt đến độ biết). Tức là “kiến thức” chỉ nằm ở cấp độ vẽ da con hổ mà thôi, còn cấp độ của “tri thức” là cấp độ của việc nhận thức điều gì đó cả trong lẫn ngoài. Điều này không có nghĩa rằng chúng ta có nhiều kiến thức thì sẽ  có tri thức, bởi lần mò, sờ mó khắp bộ lông con hổ, bạn có thể thấu suốt được bên trong của nó.

“Biết” tiếng Anh là “know”. Dấu vết đầu tiên của từ “know” có thể thấy trong từ “cnawlece” tương đương với “acknowledgment of a superior, honor, worship”, có nghĩa là “kính ngưỡng một lực lượng siêu nhiên, tôn vinh, thờ phụng”. Tiếng Anh thời Trung Cổ có từ “knoulechen”, sau này chuyển thành “acknowledge” với ý nghĩa “nhận ra” hay “giao hòa”. Qúa trình tìm hiểu từ nguyên của từ “know” này thật sự khiến tôi thích thú, bởi những gì tôi nhận thức về sự “biết” lại rất gần với ý nghĩa cổ xưa. Đứng trước một sự việc, khi chúng ta không ở trong nó thì chúng ta không thể biết về nó. Tiếp xúc với một sự vật nếu không có sự giao hòa về mặt năng lượng với sự vật thì không thể gọi là “biết” sự vật ấy. Đây chính là nguyên lý mà các cao thủ võ lâm trong truyện kiếm hiệp vẫn nhắc tới, khi người và kiếm hợp nhất. Bái Hỏa giáo do Zarathustra sáng lập, tôn giáo cổ xưa nhất của loài người có hình thức chiêm nghiệm ngọn lửa và chỉ thực sự biết về lửa khi người và lửa hợp nhất. Một cách gần gũi hơn, Đức Phật chỉ biết về Niết Bàn khi nhập vào Niết Bàn, Jesus chỉ biết được Thượng Đế khi hòa làm một với Thượng Đế.

Rõ ràng, dù ở từ “tri” của tiếng Hán hay “know” của tiếng Anh, ta đều thấy sự khẳng định rằng chúng ta không thể biết được một điều gì đó nếu chưa từng thấy và trải qua điều đó.

“Hiểu” có tiếng Hán là “thông” và tiếng Anh là “understand”. Tiếng Anh Cổ là “understandan” với ý nghĩa “bao hàm và nắm bắt ý tưởng”. Từ “thông” trong tiếng Hán cũng có cách hiểu là đào sâu một vấn đề nào đó để thấu suốt nó. Nói một cách ngắn gọn, “hiểu” chính là nắm bắt được bản chất của vấn đề.

Không biết từ bao giờ người Việt có lối nghĩ rằng việc “hiểu” quan trọng hơn việc “biết”, có thể là từ khi xứ ta được tiếp xúc với lối tư duy logic và cho rằng logic là cách duy nhất để đạt được sự hiểu biết. Nhiều người đã đồng nhất sự “hiểu” với tính logic, nhưng logic chỉ là một phương pháp tư duy để dẫn đến việc hiểu. Bên cạnh quá trình tư duy logic, những nhà khoa học vĩ đại còn mơ hồ nói đến một sự “hiểu” trong trạng thái vô thức, hay người ta vẫn gọi một cách chung chung là “trực giác”. Vì lý do nào đó, tự nhiên, trong khoảnh khắc, một người hiểu được vấn đề mà trước đó họ phải mất rất nhiều công sức để tư duy mà không thể tìm ra.

Vậy thì đâu là sự tương tác giữa “Hiểu” và “Biết”? Làm sao một người có thể “hiểu” vấn đề nếu không từng thấy và biết ở bề mặt của một vấn đề nào đó? Và làm sao người ta có thể đạt đến mức độ “giao hòa” của sự “biết” nếu không qua quá trình tìm tòi đến mức thông hiểu bản chất của vấn đề. Có vẻ như “hiểu” là chiếc cầu giúp chúng ta bắc từ trạng thái bên ngoài của sự vật, sự việc để vào đến cốt lõi và hơn cả thế, trải qua quá trình hợp nhất với điều ta đang khám phá. “Biết” có nhiều cấp độ, và “hiểu” giúp ta gia tăng cấp độ, mở rộng đường biên của sự biết.

Trang Tử trong chương Thu Thủy của Nam Hoa Kinh có một đoạn luận rất hay về tương quan giữa hiểu biết của con người và vũ trụ: Sự hiểu biết của con người chẳng qua chỉ như một giọt nước giữa đại dương mênh mông, nhưng tham vọng của con người lại chính là hiểu biết về đại dương đó. Bởi thế, từ Cổ chí Kim, bất luận Đông Tây, các học giả vẫn mải miết đi tìm bản chất của thực tại, các quy luật vận hành vũ trụ, hay theo ngôn ngữ của phương Đông là Đạo. Và cho dù có nhiều học thuyết đến đâu thì không một học thuyết nào có thể thỏa mãn nhân loại. Đó là một quá trình nhận thấy, biết, hiểu, biết sâu hơn, nhận ra thêm một điều gì đó, rồi lại hiểu và biết sâu hơn nữa… Và có lẽ ở mức độ biết cao nhất, sâu nhất, rộng nhất, đó là nhập làm một với vũ trụ, giống như giọt nước sẽ có tri thức về đại dương khi trở thành một phần của đại dương ấy. Phải chăng, đây chính là ý Lão Tử ngầm gửi gắm trong câu “Khi chưa tu Đạo thì thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông; mới tu Đạo thì núi không còn là núi, sông không còn là sông; đến khi đắc Đạo thì núi vẫn là núi, sông vẫn là sông”. Tuy nhiên, tôi vẫn không dám chắc rằng đó là giới hạn cuối cùng, bởi lẽ tôi chưa đạt đến mức độ biết đó, và giống như một Thiền Sư nhà Trần đã viết:

“Li tịch phương ngôn tịch diệt khứ,
Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.”

Quảng Nghiêm Thiền Sư

(Dịch nghĩa: “Chưa đến cõi chết thì không bàn về việc chết/ Sống mà không phụ thuộc vào sự sống thì mới được giảng về sự không sống)

Quay trở lại vấn đề “Hiểu” và “Biết”, sự mênh mông của tri thức có lẽ là điều không còn gì phải bàn cãi. Tôi tin rằng, cho đến bây giờ, không một khoa học gia, một triết gia nào còn dám vỗ ngực rằng mình hiểu bản chất của một hạt cát chứ đừng nói rằng hiểu được vũ trụ. Bởi cứ mỗi lần nhận thấy điều gì đó trong quá trình tìm tòi, họ lại giật mình nhận ra rằng hóa ra những điều mình biết trước đây là sai lầm hoặc thiếu sót.  Sự nhận ra này trở nên nhanh chóng hơn ở thời đại ngày nay, khi thông tin nhiều hơn, thế giới vận hành mạnh mẽ hơn… Chỉ cần khi mới chạm được đến sự biết nào đó thì lập tức các dữ kiện mới xuất hiện và phá bỏ cách hiểu trước đó.

Cái duy nhất con người có thể chắc chắn biết được đó là chúng ta không hiểu biết gì nhiều lắm về vũ trụ, về thế giới, về xã hội và về chính bản thân chúng ta. Mọi thứ chúng ta tưởng là chúng ta biết có thể rằng chúng ta còn chưa từng nhìn thấy, chưa từng trải nghiệm, và chắc chắn rằng chúng ta không thể có sự hiểu hay hòa nhập với nó. Bằng một cách nói quen thuộc mà tôi hay sử dụng, thì đó là ảo tưởng về sự “Biết”, bởi chúng ta chỉ tiếp xúc với sự vật, sự việc bằng các khái niệm trừu tượng trong từ điển hay những quyển sách diễn giải dài ngoằng của các nhà lý thuyết. Lý thuyết không phải tất cả, lý thuyết chỉ là một quá trình diễn ngôn về sự hiểu và sự biết của một nhà lập thuyết. Sự biết ấy có giới hạn và đến một lúc nào đó, khi bị đặt sang một không gian khác, tình huống khác, lý thuyết ấy không còn đúng nữa. Tóm lại, lý thuyết có thể chỉ là một sự đúc rút kinh nghiệm ở cấp độ cao, sâu và rộng. Mà vấn đề là không có cao cực cao, sâu cực sâu, rộng cực rộng, vì không có giới hạn cho điều này. Chúng ta  đọc được những lý thuyết ấy, nắm bắt được phần nào các khái niệm, và chúng ta tưởng rằng chúng ta đã biết. Đúng là chúng ta đã biết, nhưng chúng ta chỉ biết cái mường tượng, cái ảo ảnh được vẽ ra trong đầu dựa trên lý thuyết ấy.

Có một nguyên tắc quan trọng trong con đường khám phá, đó là phải bỏ lại những sự “Biết” và sự “Hiểu” trong quá khứ của mình. Nếu không bỏ lại, chúng ta không thể phá vỡ các giới hạn của nhận thức, không thể mở rộng đường biên, Điều này tương đồng trong phép tu Vô Ngã. Mọi thứ ta thấy đều chỉ là ảo tưởng, khi vứt bỏ ảo tưởng này, ảo tưởng khác lại xuất hiện. Qúa trình vứt bỏ liên tục, quá trình đi sâu hơn nữa, vươn cao hơn nữa, trải rộng hơn nữa là quá trình để chúng ta đạt tới sự hiểu biết thật sự.

Đây chỉ là những hiểu biết của tôi về sự Hiểu và sự Biết. Có thể ngày mai, ngày kia hay một thời gian ngắn nữa, những điều tôi đã nhận thức ở đây không còn đúng nữa và tôi sẽ lại phá vỡ những giới hạn này để hiểu biết hơn về chính sự Hiểu Biết.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Năm

Mưa

Mây ùn ùn từ đâu kéo đến không biết… và trời mưa! Mưa! Lộp độp! Ào ào! Rả rich!… Mưa như một cuộc làm tình miên man của Đất và Trời…

…Mây đi một quãng đường dài để rồi trút xuống hết theo một cơn mưa rào vội vã. Để làm chi?

…Một hạt mầm đương đầu với bao thử thách, trải bao sóng gió, vươn lên thành một cái cây, cây ra hoa, ra quả và rồi bị một con chim nào đó nuốt mất. Để làm chi?

…Một con chim lạ cất cao tiếng hót diệu kỳ và nhận lấy cho cuộc đời mình là mũi gai đâm chảy cạn máu ở tim. Để làm chi?

…Chúng ta đang theo đuổi điều gì giữa cõi mênh mông  này? Con người sinh ra chỉ để chết hay để vĩnh hằng… Biết cũng để làm chi?

Giữa trời mưa, một nụ hoa khẽ nhú khỏi đám lá xanh mướt… Ngày mai, nụ hoa ấy sẽ thành một bông hoa rực rỡ với hương ngào ngạt không gì sánh nổi…Thế nhưng, trong cơn mưa một kẻ vội vã chạy vào chỗ trú đã vô tình dẫm nát nụ hoa mong manh ấy. Có những bông hoa chưa nở đã vội tàn… Có những con chim chưa kịp hót đã bị trúng đạn rơi xuống… Có những đứa trẻ chưa kịp khóc đã nhắm mắt im lìm… Và có những cơn mưa chưa kịp làm ướt áo người thì đã tạnh.

Sự sống thì quá ngắn mà cái chết lại quá dài… Cũng chẳng quan tâm để làm gì? Kéo dài sự sống là một tham vọng điên cuồng… Sống lâu mấy rồi cũng chỉ để chết…

Chỉ biết như cơn mưa chiều nay, Trời – Đất giao hoà nhau đến tận cùng để tuôn ra từng giọt tinh huyết… Mưa thật dữ dội! Mưa thật say! Mưa điên cuồng… để trút cạn hết khí lực của Đất – Trời, để những tiếng rì rầm của sấm không còn bức bối, để từ cõi xa xôi người ta vẫn gọi là “đường chân trời”, cầu vồng đẹp đẽ hiện lên chỉ là  một ảo ảnh mong manh!

Hà Thủy Nguyên

Trích tập truyện ngắn và tản văn “Bên kia cánh cửa”

Home 2017 Tháng Năm

Thị trường sách Việt Nam (3): Sự vô nghĩa của phong trào nâng cao văn hóa Đọc

Đọc chùm bài “Thị trường sách Việt Nam” tại đây: https://hathuynguyen.com/tag/thi-truong-sach-viet-nam/

Trong “ĐỀ ÁN Phát triển Văn hóa Đọc trong cộng đồng Giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030” của Thủ tướng chính phủ được thảo ra từ năm 2010, những số liệu được đưa ra để chứng minh rằng văn hóa đọc đang xuống cấp như sau:

“2.2. Thói quen đọc: Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay số người đọc nhiều, đọc thường xuyên chiếm tỷ lệ 30%, số người thỉnh thoảng đọc là 44%, trong khi đó số lượng người hoàn toàn không đọc là 26 % – một tỷ lệ khá cao so với thế giới. Bạn đọc của thư viện chỉ chiếm khoảng 8 – 10 % dân số. Thư viện Quốc gia Việt Nam chỉ có khoảng 30 nghìn bạn đọc thường xuyên; thư viện cấp tỉnh chỉ có khoảng 1 – 2 nghìn bạn đọc, cấp huyện 500 – 600 bạn đọc; thư viện/phòng đọc cấp xã khoảng 100 – 200 bạn đọc. Có thể nói, thói quen đọc của người Việt Nam chưa được hình thành một cách vững chắc.

2.3. Xu hướng đọc: Xu hướng đọc hiện nay ít nhiều có biểu hiện lệch lạc. Giới trẻ (thanh,thiếu niên) – đối tượng chúng ta đang hướng tới xây dựng thế hệ đọc tương lai – có xu hướng đọc những truyện tranh với những nội dung đơn giản, vô bổ, thậm chí thiếu lành mạnh, ngại đọc các loại sách kinh điển, lý luận, đặc biệt các sách dày, nhiều tập, sách chữ … . Xu hướng văn hóa nghe – nhìn đang có phần lấn lướt Văn hóa Đọc. Thời gian dành cho lướt web, chơi game, xem truyền hình của học sinh, sinh viên tương đối cao tới 55%.”

Đề án này đã được phê duyệt vào năm 2017.

Số liệu này có các vấn đề như sau: Những tỉ lệ phần trăm được thống kê về số người đọc nhiều, đọc thường xuyên, đọc thỉnh thoảng và không đọc, không rõ được tính toán dựa trên số lượng bao nhiêu người được khảo sát. Bởi vì tôi, và có thể rất nhiều bạn có thói quen đọc nhiều và thường xuyên đọc sách có lẽ chưa bao giờ được tham gia trả lời những câu hỏi kiều này. Ngoài ra, số liệu chỉ ra rằng lượng người tham gia đọc ở thư viện là rất ít, cũng chưa chắc thể hiện rằng văn hóa đọc đang xuống cấp, mà hoàn toàn có thể thể hiện rằng chất lượng của các thư viện kém và xuống cấp. Phần sau khi nói về xu hướng đọc của giới trẻ, người viết không hề đưa ra bất cứ số liệu nào và bằng chứng nào cho sự “biểu hiện lệch lạc”. Thế nên, từ những số liệu này, thật sự không đủ bằng chứng thuyết phục để chứng minh rằng có một sự xuống cấp của văn hóa đọc.

Những bên xuất bản và phát hành sách đi tiên phong cho sự hô hào nâng cao văn hóa đọc phải kể đến Nhà xuất bản Tri Thức, Alpha Book, Thái Hà Book, NXB Trẻ, Nhã Nam…v…v… tiếp bước theo sau. Sự đánh giá về việc xuống cấp của văn hóa đọc từ họ có lẽ đều đến từ việc số lượng sách bán ra không đáng kể so với những sách thị trường khác. Điều này cũng không nói lên được rằng văn hóa đọc đang xuống cấp. Thứ nhất, sự xuất hiện của Internet làm gia tăng cơ hội tiếp cận các nguồn tư liệu của độc giả. Thay vì độc giả đọc các bản dịch, họ có thể đọc được tiếng Anh trên Internet hoặc các nguồn dịch miễn phí trên mạng. Thứ hai, khi số lượng các nhà sách và các đầu sách gia tăng thì miếng bánh thị trường phải bị chia nhỏ. Đây là điều bình thường. Vậy nên, các đánh giá về việc văn hóa đọc đang xuống cấp đến từ các nhà sách đều không đáng tin cậy, vì họ chỉ đánh giá dựa trên doanh số.

Thế nhưng, một điều khó có thể phủ nhận, đó là văn hóa đọc xuống cấp thật sự. Nhưng sự xuống cấp ấy không được biểu hiện bằng số lượng người mua sách hay đọc sách ở thư viện, mà đến từ những vấn đề khác. Văn hóa đọc xuống cấp vì người ta đại hạ giá sách trong những gian hàng đổ đống trong ngày sách Việt Nam, các hội chợ sách, các phố sách, hay các vỉa hè. Văn hóa đọc xuống cấp vì người đọc mua sách dựa trên tần suất xuất hiện của sách trên các phương tiện truyền thông chứ không dựa vào khả năng đánh giá của bản thân. Văn hóa đọc xuống cấp vì các tác giả đạo văn mà không bị xử phạt, dùng kiến thức sai mà không bị phát hiện… Văn hóa đọc xuống cấp vì sách bây giờ dùng để trang trí cho gia đình và cho cái thói “trưởng giả học làm sang” chứ không phải để đọc và nghiền ngẫm. Văn hóa đọc bị xuống cấp vì những tác giả, dịch giả chỉ được nhận những đồng tiền bèo bọt cho quá trình làm việc của mình… Vậy đấy, văn hóa đọc xuống cấp vì chất lượng chứ không phải ở số lượng.

Khi các phong trào phát động nâng cao văn hóa đọc được cổ vũ từ chính quyền đến người dân, người ta chỉ hướng tới số lượng chứ không phải chất lượng. Các phong trào này đều nhằm mục đích gia tăng số lượng người đọc sách, cụ thể hơn là kích thích tiêu dùng trong thị trường sách, chứ không thật sự nâng cao văn hóa đọc.

Tôi còn nhớ vào năm 2011, khi mới thành lập Book Hunter, tôi bắt đầu theo dõi facebook của một số ông chủ nhà sách, trong đó có ông Nguyễn Mạnh Hùng – giám đốc nhà sách Thái Hà. Hồi đó ông này chủ trương kêu gọi đọc sách nhanh, thậm chí còn tổ chức mấy khóa học đọc sách nhanh. Gần đây, năm 2016, Cộng đồng đọc sách tinh hoa do Alpha Book tổ chức còn có phong trào chụp ảnh tủ sách để khoe xem ai là người đọc sách nhiều.  Những trào lưu kiểu này tạo ra một ấn tượng rằng càng sở hữu nhiều sách trên tủ thì càng tỏ ra rằng mình là người có tri thức, càng lướt qua nhiều chữ thì mình càng giỏi. Trong khi ấy, đọc sách gì và đọc với tư duy như thế nào thì có vẻ không được các bên cổ vũ phong trào này quan tâm cho lắm.

Cuối năm 2016, đầu năm 2017, một phong trào có tên “Đọc sách phong cách” đã xuất hiện. Phong trào này vận động giới trẻ đọc sách bằng việc chụp ảnh và quảng bá người nổi tiếng đọc sách. Phong trào đánh vào tâm lý thần tượng hóa của giới trẻ. Phong trào này cũng tương tự như chủ trương đọc sách nhanh, đọc sách nhiều mà tôi vừa nói ở trên. Phong trào không hề giúp nâng cao chất lượng của các đầu sách và ý thức trân trọng tri thức ở người đọc. Phong trào này, cũng chỉ là một cách để kích thích tiêu dùng.

Tổ chức các sự kiện giới thiệu sách và thảo luận về sách cũng là một hoạt động được các bên ủng hộ. Đáng lý ra, hoạt động này có thể đã rất hiệu quả. Tuy nhiên, việc tổ chức các sự kiện này đang ngày càng bị đám đông hóa thành kiểu sự kiện mang tính quảng cáo hoặc “truyền đạo”.

Các buổi giới thiệu sách hoặc ra mắt sách bản chất là để giới thiệu tổng quan và các điểm đặc biệt sách với người đọc, các học giả đưa ra các hướng dẫn để người đọc có thể hiểu sách hơn. Thế nhưng, ở Việt Nam, những nội dung này không được chú trọng. Tôi đã dự một số buổi giới thiệu sách, ví dụ như giới thiệu “Dị nghị luận, đồng chân dung” (Đặng Thân) ở L’espace và giới thiệu “Minh triết thiêng liêng” (Hamvas Béla , Hồng Nhung dịch) ở VUSTA… , người ta sẵn sàng dành 2 tiếng đồng hồ cho việc bàn đi bàn lại về cái tên của quyển sách mà đáng ra chỉ cần 5-10 phút để trình bày.

Tôi cũng từng tổ chức các buổi thảo luận về sách tại nhiều địa điểm với nhiều chủ đề khác nhau. Tại các buổi này, dù rất cố gắng tôi cũng không làm sao để biến chúng thành cuộc thảo luận thú vị. Số lượng người quá đông, và đa phần người tham dự chưa đọc sách, thế nên các câu hỏi được đặt ra thường chẳng liên quan đến nội dung sách mà chỉ là sự biểu diễn định kiến của người hỏi hoặc sự khoe khoang kiến thức. Những người có câu hỏi hay hoặc phản biện hay thường chờ đến cuối buổi hoặc trao đổi với tôn qua tin nhắn facebook. Tôi cũng tổ chức được 3-4 buổi có thể gọi là tạm ưng ý vì chất lượng thảo luận. Một điểm chung của các buổi thảo luận về sách có chất lượng cao này đó là số lượng người tham dự rất ít, đều chưa đến 15 khách, với các chủ đề mang tính chất chuyên sâu. Tôi đánh giá sự “ứng ý” của một cuộc thảo luận không phải bằng số lượng người lên tiếng hay sự sôi nổi của tranh luận mà bằng việc các ý kiến và câu hỏi đưa ra có dựa trên các thông tin và số liệu liên quan hay không. Quan trọng hơn thế, sau cuộc thảo luận tôi và những người tham gia thảo luận có gia tăng thêm kiến thức và mở rộng tư duy hay không. Bởi thế, gần đây, tôi và Book Hunter đã quyết định không tổ chức các buổi thảo luận sách như thế này nữa. Tôi mong muốn một cộng đồng đọc sách, chiêm nghiệm và trao đổi dựa trên học thuật chứ không phải là sự phô diễn. Mặc dù Book Hunter đã rút khỏi hoạt động này thế nhưng những hoạt động kiểu này vẫn đang ngày một nhân rộng và lấy thước đo là số lượng người tham gia.

Những hoạt động hữu ích hơn mà tôi cho rằng cần làm ngay để nâng cao văn hóa đọc có lẽ sẽ không thực sự kích thích tiêu dùng trong thị trường sách. Nếu các nguồn quỹ đổ vào các nhóm dịch thuật để đưa tri thức thế giới vào Việt Nam thì sẽ ra sao? Bạn có biết các dịch giả có tiền nhuận bút rất rẻ mạt, thậm chí nhiều người phải nhận sách thay vì nhận tiền. Nếu hệ thống kiểm duyệt sách ở Việt Nam không đi soi các lỗi chính trị mà xử lý các lỗi vi phạm bản quyền, sử dụng sai kiến thức, viết sai văn phạm tiếng Việt…, thì mọi chuyện có khá hơn không? Nếu người đọc có đủ khả năng để biết mình thực sự cần đọc sách gì, cuốn sách nào là hay và đọc theo cách như thế nào thì có phải lượng mua sẽ giảm? Tôi cho rằng đó là những điều chúng ta cần phải so sánh với thế giới và học tập họ chứ không phải là doanh số hay những sự kiện phù phiếm đang diễn ra như phố sách, ngày sách, thảo luận sách… hiện nay.

Hà Thủy Nguyên

(Còn nữa)

Home 2017 Tháng Năm

Con đường Viết của tôi (8): Biết rõ mình đang viết gì

Các bạn click vào để đọc thêm:  “Con đường viết của tôi” 

Việc viết văn xuôi cũng giống như một vị vua đang điều khiển dân chúng của mình (chính là các từ ngữ). Một vị vua, muốn cho đất nước trật tự và phát triển thịnh trị, không thể làm bừa làm ẩu mà cần phải có sự tính toán sao cho người dân từng bước đi theo từng lộ trình mà vị vua mong muốn. Vị vua muốn thuyết phục lòng người hẳn phải dùng thuật trị dân khác với vị vua muốn đánh chiếm nước khác, không phải lúc nào cũng giống nhau. Viết cũng vậy, mỗi bài viết với nội dung khác nhau lại cần các cách triển khai khác nhau và nhằm các mục đích khác nhau. Nếu không xác định rõ cách viết thì sẽ hoang mang không biết bắt đầu từ đâu, triển khai thế nào và như thế nào là một bài viết thành công.

Việc “biết rõ mình đang viết gì” không chỉ gói gọn trong việc xác định chủ đề của bài viết, mà thậm chí còn sâu xa hơn thế. “Biết rõ mình đang viết gì” còn là biết mục đích tại sao mình lại chọn chủ đề ấy, thái độ của mình với vấn đề mình đặt ra là gì, từ đâu ta hình thành nên thái độ ấy và ta sẽ hướng bài viết đến nhóm đối tượng nào, để thuyết phục được nhóm ấy ta nên dùng giọng văn như thế nào. Thế nên, “biết rõ mình đang viết gì” bản chất là có thể nhìn thấy rõ lộ trình của bài viết và sự ảnh hưởng của nó từ trước khi đặt bút viết.

Một nhà báo, một chính trị gia, một người phản biện xã hội, một người mong muốn nêu lên quan điểm của mình… nhất thiết phải nắm rõ điều này để chọn lựa lối viết cho văn bản của mình một cách hiệu quả. Nếu không, họ sẽ hướng tới sai mục tiêu và thu hút những người đọc không thích hợp với ý mình, đương nhiên cũng sẽ mất khá nhiều thời gian vào những cuộc tranh luận và biện minh không cần thiết. Một nhà văn sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn lại càng cần phải xác định rõ ràng mình viết gì, bởi tiểu thuyết và truyện ngắn là những siêu cấu trúc và quan trọng là phải khiến người đọc cảm thấy hấp dẫn. Những quan điểm cho rằng sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn chỉ cần… “tự nhiên mà có” là lối suy nghĩ của kẻ lười biếng. Không ai trở thành nhà văn vĩ đại mà không qua những quãng thời gian tự rèn luyện, tự trau dồi và tự xác định bản thân.

Chỉ riêng thơ là khác, bởi thơ là một dạng viết “vô chính phủ”, là cách thức để cho những suy nghĩ còn đang bị giấu kín của người viết được bộc lộ. Bởi thế, người viết đôi khi cũng không hiểu lắm những bài thơ do chính mình viết ra. Thậm chí, người viết thơ có thể còn thấy xa lạ với chính bài thơ của mình, bởi bài thơ ấy xuất hiện do một phút xuất thần của nhân cách ẩn giấu đột nhiên phát lộ. Do đó, những người viết thơ rất khó chuyển sang viết văn xuôi và ngược lại không dễ gì để một người viết văn xuôi đạt được thành tựu trong thơ ca.

Gần đây, thịnh hành lối “tản văn”, là lối văn xuôi nhưng cách tư duy viết lại “vô chính phủ” kiểu thơ. Thế nên, tản văn đa phần là vô nghĩa và không để lại nhiều dấu ấn sâu sắc. Những nhà văn viết tản văn thành công như Paustovsky, Giả Bình Ao hay Vũ Bằng thì lại có lối viết nghiêng hẳn sang thiên hướng văn xuôi, tức là viết có lề luật, có chiến lược. Một số ít các cây viết tản văn lại có màu sắc thơ, nên có thể gọi là một thứ thơ viết theo lối văn xuôi mà trong đó người viết được tự do thể hiện các phần nhân cách còn giấu kín của mình. Các bạn có thể tìm thấy lối viết này qua “Giọt rừng” của Mikhail Prisvin. Tôi cũng đã thử nghiệm lối viết này trong tập truyện ngắn và tản văn “Bên kia cánh cửa” của tôi. Cũng là một thử nghiệm thú vị, bởi lối viết này giúp tôi dễ dàng xâu chuỗi những phần còn ẩn giấu của mình. Nhưng nhược điểm của nó chính là ta rất dễ rơi vào phô diễn.

Nếu coi việc viết như một cách để rèn luyện tâm trí thì chúng ta lại càng cần phải biết rõ mình đang viết gì. Một phần của rèn luyện tâm trí chính là biết mình đang nghĩ gì và không để những suy nghĩ thừa thãi chạy vô tổ chức, không mục đích. Văn bản văn xuôi là sự biểu lộ của dòng suy nghĩ. Một văn bản văn xuôi gọn gàng, ý tứ rõ ràng, dùng từ đúng với bối cảnh, là minh chứng cho một tâm trí được điều khiển có sắp xếp, có chiến lược. Người viết được một bài như vậy, hiển nhiên là một người có thể điều khiển tâm trí của mình thay vì để tâm trí điều khiển bản thân.

Những lối viết dễ dãi, không đầu không cuối, tự bóp méo thông tin, ý tứ không rành mạch thường thấy ở những cây viết hoặc còn non tay, hoặc là bừa ẩu. Những cây viết này ít quan tâm đến độc giả, nhầm lẫn giữa tư duy thơ (lối viết mang tính cá nhân cao) và các hình thức văn xuôi (vốn thiên về diễn giải để người đọc có thể hiểu). Dù có thể những cây viết này thu hút được nhiều độc giả tức thời do thủ pháp truyền thông hoặc một số lối nói thân thiện và dễ đọc, nhưng tác động của những cây viết ấy đến với độc giả rất ít. Họ không làm thay đổi cách suy nghĩ của độc giả mà họ chỉ nói những điều độc giả muốn nghe mà thôi. Và thực tế là, những người còn non tay, không có cách nào khác ngoài việc luyện tập nhiều hơn không chỉ lối viết mà cả lối suy nghĩ.

Hà Thủy Nguyên