Home 2017 Tháng Hai

Ta lạc vào xa vắng

Ta lạc vào xa vắng

Trập trùng thức mây lồng

Ai đợi ta cõi sống

Nhịp luân hồi vang vang…

 

Ta lạc vào xa vắng

Ai kẻ đóng vai ta

Uốn éo một khúc ca

Ta có về chăng nhỉ ?

 

Ta lạc vào xa vắng

Kìa là mộng hay đời

Nhân thế một kiếp chơi

Biết nên đi hay ở ?

 

Ô kìa cổ mộ ngàn năm vắng

Ô kìa cố nhân như bóng mây

Ta đợi ta

Bụi hồng dương quang lấp lóa

Lần dấu tơ duyên

Nhập hồn khúc ca xưa…

 

Ô kìa đời lao xao bỗng dừng trong tĩnh lặng

Ô kìa mộng mơ hồ bỗng tỉnh giữa đơn côi

Say ngủ chốn mây lồng

Nhân thế ta bỏ cuộc

 

Cởi vai diễn luân hồi

Khúc ca xưa ngưng bặt

Ta cười tan váng mây

Kìa giấc mơ dần tắt…

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Hai

Con đường Viết của tôi (4): Tại sao cần tuân thủ các nguyên tắc khi viết?

Các bạn click vào để đọc thêm:  “Con đường viết của tôi” 

Có nhiều người coi việc viết nhằm mục đích để thuyết phục người đọc, thế nên chỉ cần viết sao cho bay bướm văn hoa hoặc văn phong kỳ dị là đủ hoặc lời lẽ êm tai như ru ngủ. Lối viết này được các nhân vật nổi tiếng của làng viết yêu thích, đặc biệt trong thời đại Internet. Tất cả các văn bản viết một khi đã đăng trên mạng thường được cho rằng chỉ đọc lướt. Thế nên, nội dung gì không quan trọng, người viết cứ chém thoải mái, tần số xuất hiện cái tên càng nhiều thì người viết càng nổi tiếng. Dần dần, nội dung trong bài viết không đọng lại nơi người đọc mà chỉ biết đến cái tên của người viết. Bởi thế, người viết thời Internet dễ nổi danh, miễn là bạn đủ sức trâu bò viết những điều vô nghĩa vừa mắt đám đông độc giả dễ dãi. Nhưng viết một bài có tác động thay đổi nhận thức người đọc, khiến người đọc thấm thía đến mức thỉnh thoảng lấy ra đọc lại rồi vỗ đùi tâm đắc thì lại cần nhiều yếu tố khác. Các yếu tố ấy chính là nguyên tắc khi viết.

“Văn tâm điêu long” (Lưu Hiệp), tập luận bàn về văn chương kinh điển nhất của Trung Hoa nói điều này thật chí lý: “Người ta thường đi con đường văn từ hoa lệ, càng đi càng quên lối về. Nếu có thể xác lập được cái phép tắc chân chính khiến văn chương đã sáng rõ lại mạnh mẽ thì cái “phong” sẽ trong, cái “cốt cách” sẽ vững, cái thể của thiên sẽ rực rỡ.” Điều này nghĩa là sao? Nghĩa là viết mà chỉ chú trọng vào câu chữ màu mè hay lối chơi chữ sáo rỗng thì rốt cuộc là người viết cũng chẳng biết được mình đang viết điều gì, ý tứ sẽ rối loạn vô phương, người đọc không thể lĩnh hội được (Mà cũng có thể họ cố tình để người đọc càng đọc càng chẳng hiểu rốt cuộc người viết viết cái gì). Thế nên người đọc non kinh nghiệm dễ dàng bị rơi vào mê hồn trận câu từ, nhưng người đọc có kinh nghiệm thì nhìn loại văn bản màu mè ấy chắc chắn sẽ vứt vào thùng rác. Theo quan điểm của Lưu Hiệp, “phong” tương ứng với chí khí của tác giả, “cốt cách” chính là mạch văn, “thể” chính là  cá tính của người viết được biểu hiện trong văn bản. Ở đây, ông muốn nói rằng nắm vững được phép tắc của việc viết văn thì chí khí của người viết sẽ sáng rõ, mạch văn sẽ vững vàng mà hành văn sẽ đẹp một cách tự nhiên không khiên cưỡng. Vậy thì cái phép tắc của việc viết văn là gì?

Phép tắc của viết văn không phải đơn thuần chỉ là chuyện viết đúng Chủ ngữ – Vị ngữ. Viết đúng Chủ ngữ – Vị ngữ nằm trong việc viết cho đúng mạch văn, bởi như đã nói ở bài trước, đó là vấn đề nguyên tắc thông tin. Thế thì cái phép tắc viết văn thực sự là như thế nào? Bản chất các phép tắc này là một quá trình phức tạp trong cân nhắc chọn lựa cái chí khí của mình, sắp xếp cái mạch văn của mình và từ đó mới thể hiện được cái cá tính của mình.

Thế nào là chọn lựa chí khí của mình? Chí khí về bản chất chính là thái độ của mình với một vấn đề nào đó. Thái độ có muôn màu, có tức tối, có ghen tị, có mê tín, có sợ hãi, có đồng cảm, có khinh khét, có bức bối, cũng có hi vọng…v…v… Thái độ nào cũng có cái hay cái dở. Thái độ được hình thành từ việc tiếp nhận thông tin từ bên ngoài và thông tin bên ngoài ấy có sự va đập với hệ thống thông tin được lưu trữ trong ký ức của chúng ta. Nếu sự va đập này có tương thích và giao hòa thì thái độ có thiên hướng tích cực, còn nếu sự va đập này mang tính phá vỡ thì thái độ sẽ có thiên hướng tiêu cực. Để sự va đập ấy diễn ra không kiểM soát, tức là không có quá trình phân tích, tự vấn và kiểm chứng đối chiếu thì thái độ sẽ cực đoan, dẫn đến lập luận lỏng lẻo và thiếu sót, tức là đã mất đi cái cốt cách của văn bản vậy. Vậy thì phép tắc khi viết bản chất chính là quá trình xử lý các luồng thông tin va đập với nhau trong tâm trí để xác lập thái độ, hay nói ngắn gọn là cách tư duy về một vấn đề.

Trước hết, chúng ta phải xác định rõ ràng vấn đề chúng ta định viết là gì. Nếu vấn đề quá rộng lớn và chung chung thì chúng ta sẽ không hiểu biết đủ để viết. Những điều chúng ta định viết nhất định phải phù hợp với khả năng có thể tiếp cận của chúng ta. Nếu định viết về một chủ đề chúng ta chưa biết thì không có cách nào khác đúng đắn hơn là học hỏi, tìm tòi để biết. Người biết càng cặn kẽ về một chủ đề thì viết càng ít sơ hở.

Tiếp nữa, người viết cần phân tích cả tâm trí của bản thân mình. Tại sao mình phản ứng tích cực hoặc tiêu cực với một vấn đề? Điều gì thúc đẩy phản ứng ấy? Thái độ mình đang có đây rốt cuộc là do một sự va đập mất kiểm soát hay đã qua quá trình phân tích đầy đủ. Thông thường, chỉ những người chủ động kiểm soát phản ứng của mình trước một vấn đề mới có khả năng chọn lựa tìm tòi, phân tích để hiểu vấn đề. Sau khi tìm tòi, phân tích rồi, thái độ thực sự mới được chủ động xác lập một cách dần dần.

Quan trọng không kém là dựng khung cho bài viết, theo cách nói người xưa là cái “cốt cách”,  cách hiểu ngày nay là cái dàn ý. Dàn ý không thể đi trước quá trình xử lý thông tin và xác lập thái độ được, nó phải đi sau. Dàn ý thực chất là hệ thống hóa quá trình xử lý thông tin của chúng ta. Hệ thống chặt chẽ thì thông tin được sắp xếp mạch lạc trên một nền lập luận vững vàng. Chúng ta sẽ không còn phải bận tâm vừa viết vừa nghĩ mà để hành văn của mình thỏa sức như “nước chảy mây trôi”. Nhà có cấu trúc vững thì thiết kế trang trí sẽ tôn thêm vẻ đẹp, nhà dột nát thì trang trí thế nào cũng tù hãm. Con công lông có màu mè sặc sỡ nhưng xương cốt kém thì không thể bay cao và xa như đại bàng.

Đó chính là phép tắc căn bản khi viết. Người viết có kinh nghiệm thì các phép tắc này diễn ra rất nhanh trong tâm trí. Người viết non tay thì phải từng bước từng bước rèn rũa mới thành tài được. Những phép tắc này không chỉ đúng với văn chương nghị luận mà có phần còn đúng với cả văn chương nghệ thuật. Những người sáng tác nghệ thuật thường có thói quen cho rằng chỉ cần cảm xúc kết hợp với chiêu trò xào xáo câu chữ là đủ. Nhưng cảm xúc từ đâu mà có, cảm xúc khiến ta nhìn thế giới như thế nào, lại chính là cái tứ văn, tứ thơ vậy. Người sáng tác nghệ thuật không làm chủ được lối viết chẳng qua cũng chỉ mô tả lại cảm xúc của mình bằng câu từ mà thôi; còn nếu muốn sâu sắc hơn thế, ấn tượng hơn thế, đánh động vào lòng người hơn thế thì không có khả năng thực hiện. Đương nhiên cách cấu tứ cái cốt của văn bản nghệ thuật có phần khác với cách lập dàn ý của văn bản nghị luận. Điều này không có nghĩa rằng viết một cách mạch lạc và theo phép tắc là khô cứng. Lời văn biến tấu linh hoạt phụ thuộc vào dòng chảy cảm xúc và vốn từ rộng rãi của người viết, không phụ thuộc vào việc có được cấu tứ chặt chẽ hay không. Cái chí khí, cái cốt cách của văn bản càng vững thì càng có đủ lực để biến tấu câu từ linh hoạt theo ý mình.

Đó là lý do tại sao khi chúng ta bắt đầu con đường viết của mình, không nên bắt đầu từ cái vỏ mà phải bắt đầu rèn từ cốt lõi. Rèn viết không phải chỉ là học mấy nguyên tắc ghi lại trong sách hướng dẫn hay học thủ thuật. Rèn viết thực chất là học cách rèn tư duy, xác lập thái độ, hệ thống hóa tư duy của mình và học cách hiểu câu từ mình sử dụng. Khi rèn khả năng viết vững vàng, bạn có thể viết bất cứ thể loại nào mình muốn mà không cần phải học các thủ thuật.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Hai

Ăn chay là tốt, ăn thịt là xấu

Năm 2011 đến 2012, mình tu tập theo một trường phái tâm linh vô cùng khắt khe. Yêu cầu ăn chay là điều hiển nhiên. Ăn chay, theo trường phái này không chỉ ăn các thức ăn có nguồn gốc thực vật, mà ngay cả những thực vật có mùi hắc như hành tỏi cũng bị cấm tiệt. (May quá từ bé mình đã không ăn được hành tỏi). Gay gắt hơn đó là tuyệt đối không ra nhà hàng chay ăn bởi đầu bếp có thể là người ăn thịt hoặc tâm của họ nhiều hỗn loạn, gây ảnh hưởng đến năng lượng của món ăn. Tất cả những điều đó quả thực rất tốt. Song song với việc ăn chay, để giữ tâm tĩnh lặng, tôi phải cách ly khỏi những bản nhạc tôi yêu thích, ngừng việc viết lách, hạn chế gặp gỡ, và tuyệt nhiên không có mối quan hệ nam nữ. Phải thừa nhận, đây là một giai đoạn thử thách và thú vị. Trong thời gian ấy tôi khám phá ra những khía cạnh chưa từng thấy ở bản thân. Và sau khi khám phá những điều ấy, tôi bắt đầu đặt ra một loạt những câu hỏi nghi vấn. Theo những bạn đồng tu của tôi lúc đó, nghi vấn là thứ trần tục và là điều không tốt.

Nghi vấn đầu tiên đặt ra là việc ăn chay. Tại sao ăn chay có thể giải nghiệp, có thể thanh lọc cơ thể, có thể hướng thiện ? Điều này trên thực tế là rất ít cơ sở. Quan niệm tu hành ở Ấn Độ, mà gần gũi với người Việt là Phật giáo, tin rằng khi chúng ta ăn thịt động vật là chúng ta sát hại sinh mạng của chúng. Nhưng người Á Đông chúng ta lại có quan niệm rằng « vạn vật hữu linh », tức là không chỉ động vật mà cái cây ngọn cỏ, thậm chí tảng đá… cũng có sinh mệnh của mình. Ăn thực vật, theo quan điểm của người Á Đông cũng chính là sát sinh vậy. Ăn thịt một con bò, bạn giết một sinh mệnh. Ăn một bát cơm, bạn giết không biết mấy ngàn sinh mệnh. Vậy thì giải nghiệp ở đâu ? Thêm nữa là chuyện thanh lọc cơ thể. Thanh lọc cơ thể bản chất là đẩy các độc tố ra ngoài đồng thời giữ những chất tốt để nuôi dưỡng cơ thể. Ăn chay vốn dĩ không thể thanh lọc cơ thể bởi một thành phần đáng kể trong các món chay là tinh bột. Phần lớn lượng tinh bột không được « thanh lọc » mà sẽ khiến chất béo bị trữ trong cơ thể nhiều hơn. Nếu muốn « thanh lọc » hãy uống nước sạch thay vì ăn chay. Thêm nữa, ăn chay cũng không hề giúp người ta hướng thiện. Lẽ « thiện  – ác » là do nhận thức của mỗi người mà hình thành. Đạo Phật quan niệm rằng kẻ vô minh (tức ngu dốt) thì chắc chắn ác, chỉ có người hiểu biết mới hành thiện được. Ăn chay mà vẫn vô minh thì chắc chắn vẫn ác. Ác cũng có trăm đường ác : ác bằng hành động, ác bằng lời lẽ, ác bằng suy nghĩ…v…v… thế nên ăn chay vốn dĩ không làm cho con người bớt ác.

Vậy thì người tu hành ăn chay để làm gì ? Một cách sâu xa, tôi đoán rằng họ cũng chả biết. Cơ thể con người không ai giống ai, có những người hệ tiêu hóa của họ sinh ra để tiêu thụ các thức ăn có nguồn gốc thực vật, nhưng có những người hệ tiêu hóa của họ thích hợp để tiêu thụ các thức ăn động vật (dân gian gọi là « ăn mặn ». Đó là lý do tại sao có đứa trẻ thích ăn rau quả, có đứa chỉ thích ăn thịt mà ghét rau. Hãy quan sát trẻ em, đừng quan sát người lớn, bởi người lớn bị nhồi nhét vào đầu cơn cuồng tín ăn chay rồi. Đứa trẻ thích ăn rau quả có cao quý và đặc biệt hơn đứa thích ăn thịt không ? Không ! Chỉ đơn giản là cơ thể cấu trúc như thế. Tiêu hóa được rau quả tức là dạ dày của nó có thể lấy được nhiều chất dinh dưỡng nhất từ loại rau quả và nhanh chóng đào thải độc tố. Còn những người thích ăn thịt thì hệ tiêu hóa của họ cũng tương tự, cơ thể họ tự biết thanh lọc độc tố trong thịt để giữ lại những chất tốt. Kẻ vô minh ăn chay không biết điều này mà đi phán xét người ăn thịt thì chính là rơi vào ác khẩu, ác tâm vậy.

Việc ăn chay phải đi đôi với tu hành mới là tốt. Có một số phương pháp tu luyện dẫn khí trữ ở luân xa 3, tức ổ bụng thì đúng là không nên ăn thịt. Không phải bởi vì thịt « bẩn » hay « năng lượng xấu », mà đơn giản là vì người tu luyện sẽ tiêu hoa nhiều năng lượng cho việc tiêu hóa, trong khi mục tiêu là cần tiết kiệm năng lượng cho việc khác. Nhưng tu luyện cũng có « ba bảy đường », nếu không trữ khí ở ổ bụng thì ăn chay cũng chẳng cần thiết cho lắm. Ngoài ra có một số phương pháp quán tưởng, hình thức thường là hình dung ra một biểu tượng (đức tính của thần Phật hoặc cảnh giới tầng trời) để tụng niệm, để hướng tâm. Theo tâm lý học thì đây là một pháp « tự kỷ ám thị ». Những người già, phụ nữ, trẻ em, hoặc những người cơ thể thiếu chất thường dễ rơi vào ảo giác do « tự kỷ ám thị » hơn là những người khỏe mạnh, có khả năng phân tích lý trí. Phương pháp quán tưởng kiểu này tôi cũng đã từng học qua và quả nhiên ăn chay thì giúp mình duy trì các ảo giác ấy tốt hơn. Nếu bữa ăn của bạn dính tí thịt thôi, bạn sẽ lo lắng các ảo cảnh ấy tan vỡ, thế là lại tu luyện hăng say hơn, nhờ thế ảo cảnh do tâm trí mình tạo ra lại càng vững vàng hơn, càng ngày bạn sẽ càng thấy nó có vẻ « thật » hơn. Ảo cảnh ấy chỉ thực sự tan vỡ khi bạn nhận ra rằng đó chỉ là sự phóng chiếu tâm trí của mình mà thôi.

Đương nhiên, tôi không phủ nhận chuyện có một thế giới vô hình của các linh hồn (bậc cao là Phật, tiên, thần thánh ; bậc thấp là ma quỷ, vong linh). Thế giới này tôi biết là có tồn tại. Thế nhưng, phân biệt được mình có thật sự tiếp cận được thế giới này hay không, hay mình đang rơi vào ảo cảnh của bản thân thì không phải câu chuyện dễ. Và ăn chay, ăn mặn vốn dĩ chẳng giúp gì cho chuyện này. Việc biết về cõi giới vô hình kia cũng chẳng giúp gì cho con đường tu luyện. Con đường tu luyện chân chính là nhận thức bản thân mình rõ ràng, càng rõ càng tốt, để tránh tình trạng vô minh, chứ không phải ngồi ăn chay tụng niệm.

Sau chuỗi ngày hoài nghi ấy, tôi từ bỏ luôn trường phái tu luyện, cũng bỏ luôn việc ăn chay, quay về với những bản nhạc tôi thích, với những cuộc chiến tôi đang dở dang, với những kế hoạch viết lách, và đặc biệt là quay trở về với thú vui tình ái. Thỉnh thoảng chán thịt cá, tôi vẫn ăn chay, tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe và thời tiết. Nên giờ đây, nghe ai đấy truyền đạo và khuyên người khác ăn chay, tôi chỉ cười ruồi. Ừ, tốt thì có tốt, nhưng tốt là tốt cụ thể thế nào cơ chứ ?

Hà Thủy Nguyên

 

Home 2017 Tháng Hai

Vị thần không tên

Chúng ta chẳng bao giờ hiểu được tại sao đôi khi chúng ta lại có những trạng thái điên rồ được gọi tên bằng “cảm xúc”, bởi vì đó là một điều huyền bí… mà những điều huyền bí thì có bao giờ hiển hiện một cách rạch ròi để ta có thể chạm vào đâu. Và cũng một cách huyền bí, lời lý giải cho những trạng thái ấy đã được kể lại. Tuy nhiên, chẳng ai tin câu trả lời ấy cả và khi người ta càng không tin thì nó lại càng huyền bí. Mỉa mai vậy đấy!

Câu trả lời đơn giản thế này thôi, đơn giản nên người đời không tin thì cũng dễ hiểu: Những vị thần đã xúi bẩy chúng ta đấy. Câu trả lời này đã cũ mèm, chúng ta đã nghe về nó quá nhiều… Họ – kẻ thì làm chúng ta phấn khích; kẻ thì đẩy ta vào nỗi đau đớn, dằn vặt; kẻ thì đem đến cơn cuồng nộ không thể kiểm soát… tất cả… tham lam, say đắm, thù hận…  đâu thuộc về chúng ta. Chúng ta chỉ là những con rối cho họ giật dây và họ có vẻ thích thú lắm với công việc dã man này. Nhưng sự mê hoặc của họ cũng thật kinh khủng bởi chúng ta lại quá quen thuộc với loại ma thuật này tới mức không thể nào sống mà thiếu chúng.

Trong thế giới của các vị thần cảm xúc ấy, một ngày bỗng ra đời một nữ thần. Nàng không thể khóc, không biết cười, cũng chẳng biết tức tối. Trên khuôn mặt của nàng chỉ có một vẻ bình thản đến kì lạ trước mọi sự. Và với khuôn mặt ấy, nàng có thể làm chủ trạng thái cảm xúc nào của thế giới loài người? Nàng không biết và tất cả các vị thần cũng không thể giúp gì hơn. Nàng bay lượn cùng họ trong không trung và chứng kiến họ tung hứng tinh thần của con người như một quả bóng. Nàng chẳng thấy thích thú gì với trò chơi này và bắt đầu nàng thấy rõ một điều rằng hình như nàng không thuộc về nơi này. Sự ra đời của nàng có lẽ là một sai số của tạo hóa. Nhưng nếu như sự ra đời phải có một ý nghĩa nào đó thì có thể ý nghĩa của nàng không nằm ở đây…

Đôi khi, nàng thấy những con người kêu lên bởi không thể chịu đựng được những trò đùa này, nàng định lên tiếng để giúp họ xoa dịu nỗi đau, nhưng những vị thần khác ngăn nàng lại. Vị thần của Lo Lắng nghiêm trọng khuyên bảo:

  • Này em, đừng bao giờ đáp lại lời của người trần thế?
  • Tại sao ạ? – Nàng nhìn vị thần thắc mắc.
  • Khi em đáp lại lời của họ, em sẽ mất đi sự thần thánh của mình… Em sẽ trở thành người trong số họ…
  • Nhưng bi kịch hơn… – Vị thần Buồn Rầu lên tiếng – Đó là chúng ta không thể chết sau đó. Chúng ta bất tử mà…
  • Thì sao chứ? – Nàng vẫn không hiểu tại sao điều ấy lại quan trọng đến thế…
  • Vì nếu em không chịu nổi cảnh làm người, em chỉ có thể cầu xin đấng Tạo Hóa để em ở dưới Địa Ngục.

Họ lại cho nàng một bài thuyết giảng về Địa Ngục mà khổ lắm, đã có ai xuống đến Địa Ngục đâu kia chứ. Nàng thấy làm thần hay làm người thì có gì khác biệt nhau? Những kẻ cả đời làm con rối và những kẻ cả đời làm mỗi một việc là điều khiển lũ rối mà chẳng hiểu tại sao mình phải làm điều đó. Nhưng vì nghe quá nhiều, dần dần nàng cũng quên mất sự tò mò, nàng cũng mặc định tin rằng nàng thực sự thuộc về thế giới các vị thần.

Một hôm, nàng nghe các vị thần kháo nhau chuyện lạ lắm. Ở một thành phố của những cơn mưa có một chàng trai dường như trái tim của chàng vô cảm. Mọi lời thì thầm xúi bẩy của các vị thần vô dụng với chàng. Điều này khiến nàng động tâm. Có một kẻ không chịu làm con rối sao? Nàng vội vã theo sau các vị thần để đến xem thử xem chàng có thật sự kỳ diệu như vậy hay chăng?

Lúc ấy, chàng đang nằm trên một căn gác xép nhỏ. Trời mưa bão ầm ầm bên ngoài ô cửa sổ. Các vị thần Lo Lắng, Sợ Hãi xung phong tấn công chàng dồn dập, vô ích! Chàng vẫn nằm im một cách lười biếng, đôi mắt dõi xa xăm nhìn ra màn kính ràn rụa nước mưa. Lúc ấy một bản nhạc với tiếng violon buồn réo rắt làm lay động không gian. Đó là lúc cho vị thần Buồn Rầu khiêu vũ… Ma thuật của Buồn Rầu đáng sợ lắm, thần đã khiến biết bao nhiêu người chìm đắm không thể nghe thấy bất cứ tiếng thì thầm nào khác, thậm chí đến mức họ không thể chịu đựng thêm nữa, chỉ có thể tìm đến với cái chết để trốn chạy. Thật buồn cười, thế mà nhiều kẻ ngốc vẫn nghĩ rằng con người không được lựa chọn lúc họ sinh ra vậy thì họ sẽ tự lựa chọn cái chết như một sự khẳng định. Họ biết đâu họ bị xô đẩy bởi một thế lực vô hình. Lần này thì… vị thần Buồn Rầu trông lại càng buồn rầu hơn bởi chàng vẫn đủ tỉnh táo để thốt lên:

  • Kỹ thuật của tay violon này thật là điêu luyện. Nhưng nghe chỉ thấy độc một nỗi buồn, thật là nhàm chán…

Vị thần Tức Giận cắt ngang, xông vào một cách vô duyên. Vô ích thôi, Tức Giận phải có duyên cớ. Chàng giận cái gì đây khi chẳng có một cảm xúc nào có thể động được đến chàng. Các vị thần Phấn Khích, Vui Vẻ cũng đua nhau kích động chàng nhưng chàng chẳng buồn nhếch mép bởi có lẽ tâm hồn chàng đang tan lẫn giữa tiếng mưa rơi miên man, bất tận.

Vị nữ thần không tên nãy giờ đứng quan sát tất cả và nàng thấy một điều gì đó lạ lắm đang chuyển biến bên trong nàng. Sự lay động trong hơi thở của chàng khiến nàng bị rung lắc nhẹ nhàng tựa một bản nhạc êm đềm. Hơi thở nàng như một thỏi nam châm hút nàng lại gần. Khác hẳn với mọi lần nàng chỉ đứng xa và giương to đôi mắt ra nhìn thì giờ đây nàng chẳng nhìn thấy bất cứ điều gì nữa. Và lúc này, các vị thần khác lại trở thành những kẻ ngoài cuộc vô dụng.

Trời tạnh mưa dần, chàng nhổm người dậy đứng ra cửa sổ. Bên ngoài con người bắt đầu nhào ra ngoài đường như một lũ điên cuồng, chàng lắc đầu ngồi phịch xuống giường. Và cơn độc thoại bắt đầu:

  • Ôi loài người… loài người… Họ thật dễ bị lôi kéo bởi mọi thứ của thế giới này. Sao ta chẳng thể giống họ? Sao họ chẳng thể giống ta? Khi ta vội vã thì họ lờ đờ như những con sên chậm chạp, khi ta bình lặng thì họ lại như bị thú dữ đuổi sát sau lưng. Đôi khi ta tự hỏi không biết mình có thực sự thuộc về thế giới này hay không nữa?…

Đoạn độc thoại khiến nữ thần tựa như chẳng thể kìm giữ được lời nói của mình nữa. Nhưng lời nhắc nhở của các anh chị em khiến nàng ngưng lại. Nếu lên tiếng, nàng sẽ không còn là một vị thần nữa, nàng sẽ chỉ là con người trần thế… Ôi mà nào có sao… Đằng nào nàng cũng có thuộc về thế giới của các vị thần đâu. Ở đó nàng là một kẻ vô dụng, một kẻ lạc loài.

  • Việc chàng thuộc về loài người hay không quan trọng đến thế sao?

Nàng đột ngột đáp trả! Tất cả các vị thần không kịp ngăn lại, chỉ có thể thốt lên những tiếng kêu vô vọng.

 

Chàng trai giật mình quay lại đằng sau bởi giọng nữ thánh thót hoàn toàn xa lạ. Ôi chao, chàng ngây ngất bởi đôi mắt mơ hồ của nàng. Đôi mắt ấy dường như đang dõi đến một chân trời nào đó rất xa, nhưng tiếc thay làm gì có một đường chân trời đích thực, chỉ hoàn toàn là ảo giác. Từng bước, từng bước chàng tiến lại gần và đôi mắt vẫn không rời đôi mắt. Chàng nghe thấy tiếng thở phập phồng luân chuyển trong từng mạch máu của nàng.

Và trong giây phút ấy, nàng bắt đầu nhận ra trái tim của mình đang đập. Một sự si mê tràn ngập cơ thể nàng, một cảm giác ấm áp bao vây lấy không gian xung quanh nàng và một giai điệu  thần diệu đang tràn ngập tâm trí nàng. Nàng biết rằng giờ đây nàng chỉ là một con rối, nhưng nàng chấp nhận để bị giật dây bởi cảm giác này thật tuyệt vời biết bao nhiêu…

Bên ngoài căn phòng, thế giới vẫn xoay vần… Trong căn phòng, hai kẻ cô đơn trong thế giới của mình bỗng nhiên gặp được nhau. Chàng trai trẻ bỗng nhiên có một sự phấn khích và hăng hái lạ kì bởi nàng là người duy nhất có thể mỉm cười với những ý tưởng điên rồ của chàng.

  • Chàng sinh ra đã là một kẻ khác biệt đến vậy, thế thì cứ tiếp tục làm những gì khác biệt hơn nữa đi! Điên rồ thì đã sao! Vô ích thì đã sao! Chàng thích là được mà…

Nàng đương nhiên sẽ khuyên chàng như vậy rồi! Bởi nàng đã làm một việc điên rồ là rời bỏ thế giới thần kỳ và huyền bí của mình để được ở bên chàng. Vậy thì có điều điên rồ nào nàng không thể chấp nhận được nữa đây.

Nhưng nàng đã mắc một sai lầm nghiêm trọng. Bởi khi cơn phấn khích đã được kích hoạt, bỗng nhiên chàng say sưa thế giới này một cách lạ kỳ. Chàng bắt đầu đi ra ngoài và thấy mọi thứ bỗng nhiên thật đẹp đẽ: Một cơn mưa, một tia nắng, một cuộc tranh đua của sinh tồn, một lần say sưa trong mộng ảo… thậm chí vàng, bạc, châu báu, những phát minh của con người cũng kích động chàng.

Những lời khích lệ của nàng không còn cần thiết nữa! Chàng đã đủ điên rồ rồi! Điên rồ tới mức những kẻ ngày xưa xa lánh chàng giờ đây quay sang ngưỡng mộ chàng như thần tượng. Nỗi cô đơn trở thành một thứ thừa thãi. Chàng sợ cả cái cảm giác vắng lặng trong căn gác xép nhỏ năm nào, chàng đưa nàng về một lâu đài với biết bao gia nhân phục vụ và bao khách khứa sẵn sàng góp vui để nhìn thấy nụ cười của nàng. Nụ cười của nàng dễ khiến người ta cảm giác thấy sự đồng cảm. Nhưng đó là điều xa xỉ bởi càng ngày nàng càng ít cười hơn. Có lẽ thế giới này cũng đủ sự điên rồ rồi. Còn có gì đáng để mỉm cười nữa đâu?

Nàng ít cười hơn, khách khứa cũng dần xa lánh, và chàng thì lại cần có họ biết bao. Những người khách và chàng liên tục cần các cuộc phiêu lưu để thấy rằng mình có một ý nghĩa nào đó trong thế giới này. Và lúc này vị thần Buồn Rầu tìm đến khuấy đảo nàng. Trái tim yếu đuối của nàng làm sao có thể chịu đựng nổi nỗi buồn nhức nhối và xoáy sâu như vết kim đâm. Hình ảnh của những người tìm đến cái chết bỗng xuất hiện trong ký ức nàng. Phải rồi! Phải rồi! Chỉ có cái chết mới cứu nàng thoát ra khỏi nỗi buồn. Nàng lao mình khỏi ô cửa sổ của tòa lâu đài cao ngất giữa đêm mưa.

Mặt đất đây rồi và trên kia bầu trời cứ xa dần, khung cửa sổ cứ mờ dần… Mỉa mai thay, nàng vốn dĩ là một vị thần bất tử thì làm sao có thể chết. Ôi nỗi buồn quỷ quái tan theo mây gió. Và giờ đây trong lòng nàng tràn ngập một nỗi mênh mang. Nàng cũng không hề thuộc về thế giới của chàng. Nàng là ai? Nàng thuộc về đâu? Đến bây giờ nàng cũng không hề có nổi một cái tên… Bất tử trong trạng thái này thật là một điều đau khổ. Ôi giờ thì nàng trở thành con rối trong tay vị thần Đau Khổ. Những khuôn mặt thích thú của anh chị em nàng khiến nàng rùng mình sợ hãi. Đúng là nàng không hề thuộc về thế giới của họ rồi, bởi nếu có thì họ đã thương cảm mà không chơi đùa với số phận của nàng như vậy!

  • Con xin đấng Tạo Hóa hãy cho con được xuống Địa Ngục… Có lẽ Địa Ngục là chỗ duy nhất còn lại mà con thuộc về.

Đất trời rung chuyển, nàng rơi tõm vào hư vô. Đấng Tạo Hóa đã nghe thấy lời nguyện cầu của nàng. Khi mở mắt tỉnh dậy, ôi chao, một không gian vô định hình toàn màu đen. Nàng cất tiếng gọi… nàng còn chẳng nghe thấy tiếng nàng. Có vẻ như ở đây chẳng có ai cả vì thế mà giọng nói của nàng trở nên không cần thiết. Nhưng nếu tất cả đều là màu đen thì đôi mắt của nàng còn có ý nghĩa gì? Nàng ngẩng đầu lên để tìm chút ánh sáng (có lẽ vậy mà đôi mắt vẫn tồn tại). Trên kia có người, ra thế. Nàng nhìn thấy những bước chân của con người đang đi lại giữa mênh mông. Từ bên dưới, nàng có thể nhận ra đôi chân của người đang chán nản, đôi chân của người đang vui đời. Nàng cố rướn người với lên thật cao nhưng cõi người ấy cứ xa mãi… Nàng lại gồng hết sức hét thật to nhưng ai là người có thể nghe thấy tiếng vọng từ một nới sâu thẳm như Địa Ngục cơ chứ?

Nàng chợt sững người lại. Bước chân của chàng, không thể lẫn vào đâu được. Chàng đang leo lên một núi đá. Và kìa chàng đã tới đỉnh. Từ dưới này nàng có thể nhìn thấy nụ cười nở trên môi chàng khi chàng cúi xuống nhìn thế giới không hạn định ở phía dưới. Trông chàng thật yêu đời biết bao. Nàng ngồi nhẹ xuống, ôm chặt lấy hai gối và mắt vẫn ngước nhìn lên. “Chỉ cần chàng yêu đời là được và chàng hãy quên ta đi… Thế giới con người nên quên ta đi… Ta là thứ con người sợ hãi nhất và vì thế ta không có lý do gì đáng để tồn tại. Ta có thể đồng cảm với sự cô đơn của họ, nhưng khi họ không còn cô đơn nữa thì họ sẽ trốn chạy ta. Trốn chạy cũng phải thôi, chính ta còn sợ bản thân mình cơ mà… Ôi, đến giờ ta mới biết mình có tên là Cô Đơn…”

(8/2012)

Hà Thủy Nguyên

Trích từ tập truyện ngắn “Bên kia cánh cửa”

Home 2017 Tháng Hai

“Dead Poets Society” – Thi ca, tự do và niềm đam mê

Tôi xem “Dead Poets Society” (Tên Việt: “Cộng đồng những nhà thơ chết”, “Hội thi nhân quá cố”, “Cộng đồng thi sĩ quá cố”) cách đây 5 năm. Lúc ấy, tôi đã chán nản với văn chương, bởi nghĩ thầm “Thời nay ai mà đọc văn chương” nữa và nghĩ rằng có lẽ mình nên chấm dứt con đường ấy của mình. Thế nhưng,  tình cờ, bật TV lên trong một ngày  nhạt nhẽo, tôi đã gặp bộ phim này với gương mặt của người diễn viên tôi yêu thích – Robins William. Bộ phim tạo ra một không gian văn chương mà ở đó nhân vật chính là thầy dậy văn chương Anh John Keating và những cậu học trò trẻ tuổi. Bằng một tình yêu văn chương say đắm của mình, thầy Keating đã đánh thức khả năng cảm nhận văn chương, sự say mê cuộc đời và tinh thần tự do ở những chàng trai trẻ.

Ấn tượng đầu tiên khi nhìn những chàng trai trẻ trong phim đó là vẻ ngoài ngây thơ, ngơ ngác mà ẩn chứa một lòng khao khát, tò mò đến mức hồi hộp. Trong đầu tôi lập tức bật lên mấy câu thơ của Huy Cận:

“Chân non dại ngập ngừng từng bước nhe

Tim run run trăm tình cảm rụt rè

Tuổi mười lăm gấp sách lại, lắng nghe

Lòng mới mở giữa tay đời ấm áp”

(“Tựu trường”)

Những gương mặt ấy, mở đầu phim, phải tỏ ra nghiêm túc để nghe về những điều luật của trường học, phải ngoan ngoãn một cách chán nản để theo học tiếng Latin, Toán học, Hóa học… Những chàng trai trẻ ấy khi vì ký túc xá dù vui vẻ với nhau những cũng thu lại mỗi người một góc riêng, kìm hãm giấc mơ của mình để vừa lòng bố mẹ. Giữa những chuỗi ngày ấy, thầy Keating đã xuất hiện với một chân dung khác hẳn. Keating khiến cho tất cả những người học trò ấy đều cảm thấy kỳ quặc vì thầy vừa đi vừa huýt sáo, thầy bắt học trò gọi mình là “O Captain! My Captain” (Tên một bài thơ của Walt Whitman). Hơn thế nữa, Keating ngay từ buổi đầu tiên đã truyền cảm hứng cho những học trò của mình một thông điệp: “Carpe, carpe diem, seize the day boys, make your lives extraordinary.” (“Carpe, Carpe diem, nắm bắt từng ngày hỡi các chàng trai, hãy biến cuộc đời của các em trở nên phi thường)

Đỉnh điểm của sự kỳ quặc, đó là khi Keating gọi đống lý thuyết văn chương sử dụng để đo đạc “độ hay của tác phẩm” được viết trong sách giáo khoa là “bullshit” giữa lớp và bắt học sinh phải xé tan nát chúng. Tất cả các học sinh đều vô cùng ngỡ ngàng, sợ hãi xen lẫn thích thú. Xem chừng, cái cảm giác muốn đập tan mọi khuôn khổ của trường học đều nằm sâu bên trong các chàng trai trẻ. Không chỉ có vậy, thầy Keating thúc đẩy tính cá nhân và sự tự do của những cậu trai trẻ bằng việc cho họ tập đi tự do. Đi tự do theo cách của mình, kể cả đó là cách ngớ ngẩn, chính là một trong những phương pháp để đập phá khuôn khổ vốn dĩ đã được cài đặt vào não trạng của học sinh bằng thói quen xếp hàng. Đến đây, tôi lại nhớ đến video clip “Another brick in the wall” của Pink Floyd. Trong clip ấy, những em bé học sinh phải đi theo hàng, bước đều bước trên một cỗ máy. Keating còn khuyến khích học trò của mình trèo lên bàn để nhắc nhở học trò rằng cần phải nhìn thế giới theo nhiều cách khác nhau. Đó chính là khởi nguồn của sự bất tuân. Phải chăng, chỉ những con người bất tuân mới có thể cảm nhận được văn chương và thi ca.

Trong không khí kỳ quặc đến phi thường ấy, khi những cậu học sinh đã được trải nghiệm cảm giác thoải mái, tự do, đó là lúc Keating nói về thi ca. Ông không đọc văn chương bằng thứ giọng chán ngắt mà biến tấu giọng dựa trên nhịp điệu cảm xúc của tác phẩm. Ông để những đứa trẻ vừa đá bóng, vừa nghe giao hưởng, vừa đọc thơ. Ông ngấm ngầm chuyển cho học trò cuốn sách ghi chép lại những vần thơ hay của William Shakespeares, Henry David Thoreau, Walt Whitman, Paoblo Neruda… Vậy là những chàng trai trẻ cứ đêm đêm đến một hang động, đọc thơ và thổi saxophone cho nhau nghe bên ngọn lửa. Có lẽ, đây là những giây phút vui vẻ nhất, say đắm nhất, tự do nhất của những chàng trai. Và lẽ đương, một khi đã quen với say đắm, với tự do, làm sao có thể chấp nhận được những khuôn khổ ngớ ngẩn và chán ngắt.

Những chàng trai “tim non dại” ấy đã nổi loạn. Không phải biểu tình đập phá. Sự nổi loạn đơn giản chỉ là sống hết mình. Khi một chàng trai dám đi theo giấc mơ diễn kịch của mình chứ không muốn làm kỹ sư, bác sĩ, đó là nổi loạn. Khi một chàng trai dám vượt qua mọi khó khăn cản trở để đến với người mình yêu, đó là nổi loạn. Khi một chàng trai dám cất lên tiếng dữ dội từ sâu thẳm bên trong mình, đó chính là nổi loạn. Đúng như lời giảng của thầy Keating: “Các chàng trai, các em phải cố gắng tìm kiếm tiếng nói riêng của mình. Bởi vì còn chờ gì nữa mà không bắt đầu, không thể chắc chắn rằng sau này các em còn có thể tìm thấy. Như Thoreau nói: “Hầu hết những người đàn ông đều sống trong sự yên tĩnh đến tuyệt vọng” Đừng chần chừ nữa! Hãy phá tung!”

Qua bộ phim, chúng ta có thể tìm thấy cho mình câu trả lời về mục đích thật sự của văn chương, mà thi ca là một phần trong đó. “Chúng ta không đọc thơ viết thơ vì nó dễ thương. Chúng ta đọc thơ và viết thơ bởi vì chúng ta là thành viên của loài người. Và loài người được lấp đầy bởi đam mê. Và Y học, Pháp luật, Kinh doanh, Kỹ thuật đều là những đeo đuổi cần thiết để duy trì sự sống. Nhưng thơ ca, vẻ đẹp, tình yêu, đó là những gì xứng đáng để  ta sống vì chúng. Một trích dẫn từ Whitman: “Ồ tôi, ồ cuộc sống!… trong những câu hỏi lặp đi lặp lại, của đoàn tàu vô tận không có niềm tin… của những thành phố đầy những kẻ ngốc, có gì tốt đẹp ở đây. Ồ tôi, ồ cuộc sống?” Đó chính là câu trả lời. Giờ thì các em đang ở đây, cuộc sống luôn tồn tại và có bản sắc riêng, hãy mạnh mẽ lên và các em sẽ góp vào đó câu thơ của mình. Thế đó, mạnh mẽ lên và góp vào câu thơ của mình. Câu thơ đó sẽ là gì?” Mục đích cao nhất của văn chương, theo những gì thầy Keating dậy, không phải sự cứu rỗi, mà là thúc đẩy. Không phải ve vuốt sự nhân văn giả dối mà mở rộng các phạm vi của nhân tính, chắp thêm đôi cánh cho con người để bay tới tự do. Và bởi thế, các thế lực muốn kiểm soát xã hội không bao giờ muốn văn chương được cất lên tiếng nói của mình. Giáo hội Công giáo đã từng coi văn chương và nhiều ngành nghệ thuật khác là quỷ dữ cần bị bài trừ. Cách mạng văn hóa Trung Quốc đã tiêu diệt văn chương bằng bần cùng hóa và tra tấn tinh thần. Vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm và Xét lại ở Việt Nam đã đẩy văn chương đích thực vào tù ngục, bị cô lập và tẩy chay. Đến nay, văn chương tưởng như đã an toàn. Không, truyền thông đã đẩy văn chương vào một xó, rẻ rúng nó, làm nó biến chất thành một thứ quái vật. Nhưng không, văn chương vẫn cứ là văn chương. Và truyền thông lại ca ngợi những thứ mạo nhận văn chương.

Tác giả kịch bản của bộ phim “Dead Poets Society” hẳn phải thấm thía thân phận của văn chương một cách sâu sắc. Sau tất cả những giây phút đam mê nhất, đẹp đẽ nhất, là cái chết của một chàng trai trẻ đã dám nổi loạn đi theo tiếng gọi của nghệ thuật. Cậu chết bởi cảm thấy rằng cuộc đời này sẽ không cho phép cậu được cất lên tiếng nói bay bổng của riêng mình. Rằng cuộc đời này sẽ trói buộc cậu trong trật tự xã hội. Và một con người, nếu không thể là chính mình thì còn sống làm gì nữa!

Còn Keating, người thầy say mê với văn chương ấy bị đuổi khỏi trường học. Lần gặp mặt cuối cùng của Keating với những người học trò của mình, ông bước đi trong buồn bã. Nhưng rồi, tiếng gọi “O captain my captain” vang lên. Những người học trò của ông đã đứng lên bàn, như một lời chào từ biệt, như một lời hứa hẹn rằng: Chúng em sẽ không quên những điều này! Chúng em sẽ nhìn thế giới theo nhiều cách khác nhau! Chúng em sẽ không cúi đầu! Chúng em sẽ có một cuộc sống phi thường!

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Hai

Cái bi và cảm hứng sử thi trong phim ảnh đại chúng đương đại

Thế kỷ 19 và 20, nhân loại liên tiếp ở trong những cuộc chuyển dịch về tâm thức. Bước ra khỏi thời kỳ Trung cổ, được truyền cảm hứng nhân bản từ các nhà Khai Sáng, con người hướng tới các giá trị bình đẳng. Từ đó, thân phận của những người cùng khổ, những tầng lớp thấp, các bi kịch cá nhân trong đời sống bình thường bắt đầu trở thành đề tài của các tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là trong văn học và sân khấu kịch. Phim ảnh xuất hiện sau rất lâu, chỉ xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, nhưng đã nhanh chóng bắt nhịp vào sự chuyển dịch. Thậm chí, so với văn học và sân khấu, phim ảnh còn dễ dàng hơn để truyền tải đời sống thực của con người hiện đại.

Cái Bi xuất phát từ các Bi Kịch cổ đại từ Hy Lạp, biểu hiện trong các tác phẩm văn học, và đến bây giờ thực sự nở rộ trên phim ảnh. Nếu cái Bi trên sân khấu kịch và các tác phẩm sử thi của Hy Lạp – La Mã  hướng tới giá trị thần thánh, thiêng liêng và phẩm chất anh hùng phi thường thì trong thế kỷ 20, cái Bi hướng tới những giá trị cá nhân hơn: Những cuộc đấu tranh của các cá nhân nhỏ nhoi để đạt được điều mình muốn trong một đời sống tầm thường. Điều này biểu rõ nét trong các tác phẩm phim câm của Charlie Chaplin như “A woman of Paris” hay “The gold rush”… Phim có tiếng ra đời sau đó, nhanh chóng được đại chúng ưa thích, hầu hết các phim đều xoay quanh số phận các con người đô thị. Đến chiến tranh thế giới thứ 2, bi kịch của con người trong cuộc chiến đã trở thành chủ đề chính của cả văn học, sân khấu kịch và đặc biệt là phim ảnh. Sự phát triển của công nghệ đã cho phép các thước phim ngày càng sống động hơn với kỹ xảo tốt hơn, thừa kế từ các công nghệ chiến tranh. Có thể nói, cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, mang lại đau khổ cho nhân loại, nhưng nỗi đau đó đã nuôi dưỡng phim ảnh phát triển một cách đột phá. Bi kịch phát triển một cách tự nhiên từ đời sống, đi lên màn ảnh, và màn ảnh truyền tải cái Bi ấy đến đại chúng như một thứ cảm xúc lây lan. Ở mỗi thời đại, cái Bi lại mang một màu sắc khác nhau, và vì vậy, cái Bi của thế kỷ 20 đó là nỗi đau của những con người phải vật lộn trong đời sống, tạo cho người xem sự thương cảm, cho dù khoác chiếc áo hiện thực hay lãng mạn.

Cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, tính chất bi hùng của sử thi lại được thức dậy, nhưng không phải là các vị thần hay bán thần thời cổ đại, mà là những người bình thường nhưng đạt được tầm vóc siêu nhân và phi thường. Tính phi thường này đặc biệt được nước Mỹ đẩy cao sau chiến tranh thế giới thứ 2. Lý giải cho hiện tượng này, có thể là lý do truyền thông về một nước Mỹ hùng cường, thực hiện những điều không tưởng vượt quá sức tưởng tượng của con người, một nước Mỹ anh hùng cứu nhân loại như những Siêu Nhân, Người Nhện, Người Dơi… Song song với Mỹ trong thời kỳ đó, sau chiến tranh thế giới thứ 2, ở Trung Quốc và Hongkong, phim võ hiệp lên ngôi, cố tạo ra hình mẫu anh hùng trí dũng, nhân nghĩa, không màng danh lợi.  Với hai mô típ hình mẫu ấy, phim ảnh đại chúng của Mỹ và Trung Quốc đã thống trị thế giới trong những năm cuối thế kỷ 20 đã chiếm lĩnh văn hóa đại chúng thế giới bằng sự phi thường. Cảm hứng sử thi một lần nữa được tái sinh trên màn ảnh bằng một không khí hoàn toàn khác: hư ảo hơn và vĩ mô hơn, trong

Cảm hứng siêu anh hùng trong phim ảnh Mỹ

Năm 1961, hãng Marvel cho ra đời bộ truyện Fantastic Four, và sau đó là một loạt các truyện như X-men, Siêu nhân, Người Nhện… đã làm mưa làm gió thị trường truyện tranh, rồi được chuyển thể thành phim. Hình mẫu nhân vật anh hùng trong các bộ phim này đều là những người bị đột biến gen do một tai nạn nào đó. Đột biến gen mang đến cho họ các năng lực kỳ diệu và họ sử dụng năng lực ấy để bảo vệ con người. Đây là con đường tất nhiên phải trải qua của hầu hết các anh hùng trong truyện Marvel xuất bản. Với số phận đặc biệt đó, bi kịch của các siêu anh hùng này đều phản ánh tâm thức chung của thế giới phương Tây.

Trước hết, đó là bi kịch của kẻ dị biệt. Năm 1950 – 1960, sau chiến tranh thế giới, người phương Tây nhận thức sâu sắc sự ngu xuẩn của đám đông mệnh danh chính nghĩa, mệnh danh lòng yêu nước. Con người phương Tây bắt đầu đi tìm bản thể của chính mình, chịu ảnh hưởng của Chủ nghĩa hiện sinh và các trào lưu tôn giáo mới được các nhà huyền môn như Krishnamurti, Osho… rao giảng. Phong trào Hippi là biểu hiện cho sự trỗi dậy của cái tôi cá nhân, không phải thứ cá nhân tầm thường, mà là thứ cá nhân dị biệt với lòng tin vào sự không giới hạn của con người. Con người cá nhân này tách khỏi đám đông, vượt trội khỏi đám đông, nhưng phần nào đó lại cảm thấy lạc lõng khi phải đi một mình và bị đám đông coi như các con bệnh của thời đại. Với tâm trạng dị biệt này, các tác giả của Marvel hẳn cũng bị ảnh hưởng của các phong trào cùng thời bấy giờ như Beat Generation, New Age, Hippi…

Cái bi của kẻ lạc lõng và khác biệt là điểm đặc biệt so với các tấn bi kịch Cổ đại, Cổ điển và các vở kịch hiện thực. Sự lạc lõng này không đến từ việc kém cỏi, mà đến từ việc mạnh mẽ và vượt trội hơn đám đông. Nếu ở thời cổ đại, các anh hùng rất đắc ý với các khả năng siêu nhiên của mình thì các siêu anh hùng cuối thế kỷ 20 lại có vẻ sợ hãi với các siêu năng lực. Đám đông trong các phim siêu anh hùng của Marvel đều gợi cho người xem thấy những con người ngu xuẩn, sợ hãi và tàn nhẫn với các cá nhân dị biệt.

Yếu tố dẫn đến sự dị biệt này thường đến từ nguyên nhân đột biến: có thể là do đột biến gen như trong Fantastic Four, Người Nhện, Hulk, Captain American; hay do xuất thân từ hành tinh khác như Thor hoặc Superman, hoặc có được nhờ công nghệ và kỹ năng chiến đấu cao như Người Dơi hoặc “Iron man”…  Cảm hứng chủ đạo dẫn tới việc xây dựng các nguyên mẫu anh hùng này đến từ sự phát triển vượt bậc về công nghệ của phương Tây và các khám phá khoa học về Vật lý lượng tử, Vũ trụ toàn ảnh, Hố đen… lúc bấy giờ.

Loại bi kịch thứ hai mà các siêu anh hùng phải đối mặt không phải là các cuộc chiến đẫm máu, mà là cuộc chiến với bản thân mình. Những cuộc chiến đẫm máu với kỹ xảo hoành tráng dường như chỉ làm nền cho cuộc đấu tranh nội tâm khi mình đánh nhau với chính mình – thứ đấu tranh điển hình của thế giới Hậu hiện đại. Nếu bi kịch của sự dị biệt nhanh chóng được các siêu anh hùng vượt qua khi ra tay cứu thế giới thì cơn giằng xé của các phần khác biệt trong một con người dai dẳng và là bàn đạp cho mọi cao trào trong cốt truyện.

Bi kịch khi chiến đấu với chính mình thể hiện rõ trong các phim mà nhân vật phải sống với các nhân cách khác nhau, tưởng như là đối lập. Người Nhện, một nhân cách đeo mặt nạ cứu thế giới, một nhân cách là anh chàng chụp ảnh nhút nhát luôn thua kém mọi người. Giận dữ đã tạo ra mâu thuẫn sâu sắc giữa hai nhân cách này của Người Nhện, tạo điều kiện cho thứ chất nhờn đen biến Người Nhện thành kẻ ác. Và khi anh quyết định đứng lên đấu tranh với chính mình trong không gian của tiếng leng keng của các thanh sắt chạm nhau, tựa như tiếng chuông nhà thờ, phần ác đã bị đẩy bật khỏi Người Nhện. Một cuộc chiến khác cũng gay go không kém, đó là cuộc chiến của Hulk, một phần là nhà khoa học nổi tiếng đầy lý trí và khôn ngoan, một phần là người da xanh hung dữ như Titan hoàn toàn là thú tính và bản năng. Đây là cuộc chiến điển hình của Apollo và Dionysus. Nếu phần Apollo trong Hulk muốn chấm dứt câu chuyện thì phần Dionysus lại khiến bản năng Titan thức dậy và đập phá. Yếu tố thức đẩy bản năng này cũng đến từ sự giận dữ. Nói một cách khác, giận dữ đã khiến các anh hùng vượt trên cả sự phi thường để đến với sự hùng vĩ cổ đại, thứ mà các vị thần Hy Lạp phải nhốt dưới địa ngục Tartar.

Trong các phim về bi kịch anh hùng, tình yêu nam nữ rất mờ nhạt. Các nhân vật nữ xuất hiện chỉ cho có, không gây lại bất cứ ấn tượng sâu sắc nào về tình yêu. Họ thường đóng vai trò mỹ nhân gặp nạn để các anh hùng phô diễn kỹ năng chiến đấu, hoặc đóng vai trợ lý đắc lực, nhưng không anh hùng nào dở sống dở chết về người tình giống như trong phim võ hiệp ở phương Đông cả. Không rõ các tác giả xây dựng hình mẫu anh hùng như vậy là để ẩn dụ cho bản tính tự yêu bản thân của anh hùng hay chỉ đơn thuần tạo ra các chàng trai cơ bắp trong bộ quần áo bó sát người với tình yêu không quá lý tưởng để kích thích giấc mơ của các cô gái tuổi mới lớn?

Đỉnh cao cái bi của các siêu anh hùng đó là khi các siêu anh hùng nhận ra rằng họ gây tai họa cho thế giới nhiều hơn cứu thế giới. Cái bi này thể hiện rõ nhất trong bộ truyện tranh và phim “Watchmen”. Các siêu anh hùng trong phim trở thành các công cụ cho chính trị để thiết lập quyền lực. Dr Manhattan, Rorschach, Comedian là người thấm thía nhất bi kịch này. Đây là nỗi đau của những kẻ vỡ mộng khi nhận ra rằng mình chỉ là con rối và ý thức được những sợi dây. Lựa chọn của họ đặt ra đó là: tiếp tục cứu thế giới như một công cụ hay đi tìm một thứ ý nghĩa khác. Nhưng vì không thể tìm ý nghĩa khác, hầu như trong số họ chấp nhận số phận công cụ, chỉ có Rorschach vẫn tiếp tục bảo vệ sự thật, và Adrian Veidt trở thành một kẻ thống trị, một siêu ác nhân. Đáng tiếc là chỉ có siêu ác nhân này mới có thể tiếp tục duy trì thế giới. “Watchmen” đánh dấu sự đảo lộn của các giá trị mà các siêu anh hùng vẫn tôn thờ, đồng nghĩa với nó là sự đảo lộn các giá trị mà phương Tây vẫn tôn thờ, sự bóc trần tham vọng cứu thế giới mà thực ra là chiếm thế giới cảu Mỹ.

 

Vẻ đẹp của siêu ác trong phim ảnh Mỹ

Bi kịch của các nhân vật ác tính được truyền cảm hứng từ các tiểu thuyết như “Dracula”, “Frankeinstein” hay truyền thuyết về người sói. Từ khi có phim ảnh, các nhân vật ác này được đưa lên để thu hút đại chúng, nhưng rồi chính các nhà làm phim đã tạo ra các chuẩn mực mới cho cái ác. Không phải chỉ là cái ác trong các nhân vật phản diện truyền thống, cái ác trong phim ngày nay đã chạm tới sự siêu vượt.

Siêu ác không được định lượng bằng số lượng người chết hay các biện pháp tra tấn dã man, mà thường nhuốm màu sắc bi thương. Các nhân vật ác thường ẩn chứa trong mình một bi kịch cá nhân bi thương, thúc đẩy cơn điên loạn bên trong. Cái ác không đơn thuần chỉ là thú tính hay mưu kế hại người, cái ác được nâng tầm thành một loại triết lý, một lối sống.

Siêu ác nổi tiếng, gây ấn tượng sâu đậm tới người xem phải kể đến Joker trong “Batman”. Joker được truyền cảm hứng từ tiểu thuyết “The man who laughs” của Victor Hugo. Joker là kẻ có bộ mặt hề luôn luôn cười. Trong phim “The dark knight” đã lược đi bài hát của Joker, nhưng ở bộ phim “Batman” năm 1989 có nhắc đến:

“Ta chỉ cười ở bên ngoài

Nụ cười của ta ngay dưới lớp da này

Ngươi sẽ thấy ta đang khóc

Ngươi có thể cùng ta khóc ròng”

Bên ngoài cười vĩnh viễn, bên trong khóc vĩnh viễn. Cái ác nảy sinh từ việc thấu tận cùng nỗi đau. Trong nỗi đau, con người sẽ mất nhân tính. Joker đã làm thử nghiệm cái ác của mình với các phi vụ giết người. Hắn khủng bố, nổ bom, không phải vì tiền hay muốn thống trị thế giới, hắn muốn nhìn thấy con người đối mặt với sự phi nhân tính của mình, hắn muốn con người ở trong nỗi đau tận cùng. Ẩn sâu trong siêu ác là tột cùng của cái bi.

So với Batman và Harvey Dent,  Joker luôn hài hước. Chỉ khi ở tận cùng dưới đáy của cái bi, người ta mới có thể nhìn toàn cảnh về lẽ phải trái, đúng sai, thiện ác ở đời, và chỉ lúc ấy mới thể cười trong đau đớn. Sự hài hước thâm sâu xuất phát từ nỗi đau, là biểu hiện một phần của tính siêu ác. Nếu các bạn không chấp nhận được điều này, hãy thử nhìn lại nhân vật Harvey Dent. Harvey Dent vốn là “Hiệp sĩ trắng”, chuyên tiêu diệt kẻ ác nhân danh chính nghĩa. Nhưng khi ở tột đỉnh nỗi đau, Harvey Dent đã thành “Người hai mặt” và thực hiện kế hoạch trả thù, lúc này, hắn đã bắt đầu biết hài hước.

Cùng với ý tưởng này, cái siêu ác đã vượt trên các ranh giới của xã hội. Những biểu tượng một thời của cái ác như phù thủy, ma cà rồng, ma sói xuất hiện trên màn ảnh với tấn bi kịch của chính mình. Với tấm bi kịch này, họ đã giận dữ reo rắc nỗi sợ cho con người. Cụ thể hơn, con người chỉ là sự giải tỏa cho nỗi đau này. Trong thế kỷ 21, sự nổi lên của các hình mẫu nhân vật quỷ dữ chiếm một thị phần quan trọng trên màn ảnh. Tuy nhiên, càng gần đây, tính chất siêu ác càng bị sụt giảm, mà thay vào đó là những mối tình lãng mạn của các nhân vật quỷ dữ.

Cái bi của Á Đông qua truyện và phim kiếm hiệp

Truyện kiếm hiệp kế thừa từ những tác phẩm chương hồi cổ điển Trung Hoa như “Thủy Hử”, “Chinh Đông chinh Tây”, “Thất hiệp ngũ nghĩa”… Các cây bút như Kim Dung, Cổ Long, Ngọa Long Sinh… một thời đã làm mưa làm gió trên các trang báo và thị trường xuất bản của Hongkong cũng như Trung Hoa đại lục. Tuy nhiên, trong số các nhà văn kiếm hiệp, chỉ Kim Dung và Cổ Long đưa ra các điển hình về nhân vật bi kịch, mà cho đến nay vẫn ảnh hưởng đến các tác phẩm cổ trang trên màn ảnh.

Người Việt Nam rất quen thuộc với Kim Dung, các tác phẩm của ông đầu tiên được đăng trên tờ Minh Báo của Hongkong. Các tác phẩm đậm chất bi thương sử thi của ông có thể kể đến “Thần điêu đại hiệp”, “Ỷ thiên đồ long ký”, “Tiếu ngạo giang hồ” và đặc biệt là “Thiên long bát bộ”. Các bi kịch này thường xoay quanh các vấn đề sau:

Thứ nhất, mâu thuẫn dễ nhận thấy nhất và cũng điển hình cho tâm lý của trí thức Trung Hoa, đó là lựa chọn giữa con người phận vị và con người cá nhân. Con người phận vị thường gánh vác trên vai nghĩa vụ với dân tộc Trung Hoa hoặc với gia đình, mà nghĩa vụ này lại hoàn toàn đối lập với những mong ước cá nhân. Kim Dung thường đưa ra các mối tình éo le để đẩy cao mâu thuẫn này: Một Trương Vô Kỵ thống lĩnh Minh giáo để tiêu diệt nhà Nguyên nhưng lại yêu quận chúa Mông Cổ Triệu Minh; một Lệnh Hồ Xung phải trừ gian diệt ác nhưng lại kết giao với bạn bè ở tà giáo và yêu Thánh Cô của Nhật Nguyệt thần giáo Nhậm Doanh Doanh… Không chỉ có các mối tình, Kim Dung cũng thường đặt các anh hùng của mình ở tình thế nhiều ngã rẽ về vấn đề dân tộc hoặc thiện ác. Trong “Thần Điêu đại hiệp”, Dương Qúa luôn phải lựa chọn giữa mối thù nhà, các âm mưu chính trị và mơ ước được cùng Tiểu Long Nữ phiêu du bốn bể. Trong “Thiên Long bát bộ”, Kiều Phong cũng bị đẩy vào tình thế vô thừa nhận về mặt chủng tộc, khi dòng máu là người Khất Đan nhưng tâm trí lại là người Hán. Kiều Phong đứng giữa hai chủng tộc, luôn cố hòa giải mâu thuẫn giữa hai tộc người này, nhưng ước mơ lớn nhất của chàng là được cùng A Châu sang bên kia Nhạn Môn Quan “săn chồn đuổi thỏ”. Trung Hoa với ảnh hưởng của Khổng giáo, tạo cho tâm thức của người Trung Hoa gắn liền với các nghĩa vụ Tam tòng tứ đức. Nhưng con người cá nhân luôn muốn vứt bỏ các khuôn khổ ấy, và từ đầu thế kỷ 20 đến nay, ước mơ ấy vẫn là cảm hứng chủ đạo trong các tác phẩm văn học Trung Hoa.

Thứ hai, bi kịch thật sự ám ảnh trong các tác phẩm của Kim Dung chính là tình yêu, đúng như Lý Mạc Sầu thốt lên: “Hỏi thế gian tình là gì mà khiến ta đau khổ”. Tình yêu có thể coi là khoảng không gian cá nhân yêu thích của người Trung Quốc, nơi mọi lý trí sụp đổ, mọi lễ giáo sụp đổ, mọi sự kiêu ngạo sụp đổ, và ngay cả sự cao đạo cũng sụp đổ. Bi kịch của tình yêu thường nảy sinh trong quá trình diễn ra sự sụp đổ này, khi mà nhân vật không thể chấp nhận được sự sụp đổ của mình. Lý Mạc Sầu sa vào cái ác do đau khổ vì tình, Chu Chỉ Nhược mất hết lý trí dẫn đến tẩu hỏa nhập ma, Du Thản Chi thân bại danh liệt vì chạy theo A Tử…

Hai loại bi kịch này đặc biệt ảnh hưởng ở các tác phẩm ngôn tình cổ trang sau này của Trung Hoa như “Hoa Thiên Cốt”, “Lang Nha Bảng”… Ngôn tình cổ trang có thể là kiếm hiệp hay tiên hiệp, đều đặc biệt xoáy sâu vào các bi kịch ái tình và mâu thuẫn giữa phận vị với tự do cá nhân. Những mâu thuẫn này dẫn đến những trạng thái đau khổ, dằn vặt trong từng cử chỉ và lời nói, tạo ra sự đối lập giữa mong muốn nội tâm của nhân vật và biểu hiện hành động bên ngoài. Sự đối lập này càng nhiều, nhân vật càng đau khổ. Dân ngôn tình vẫn gọi cách thức bi kịch này là “ngược luyến”.

Trái ngược với các tác phẩm của Kim Dung, Cổ Long không xây dựng cái bi qua tiến trình của câu truyện mà xây dựng các nhân vật đã ẩn chứa cái bi trong tính cách. Xét qua một loạt các nhân vật như Lý Tầm Hoan, Lưu Hương Đạo soái, Lục Tiểu Phụng, Hoa Mãn Lâu… Các nhân vật này thường rất dị biệt so với cõi giang hồ, thường chỉ mải vui mà rơi vào các âm mưu và thường không bị ràng buộc bởi con người phận vị. Những nhân vật vừa kể trên đều có đời sống ngao du giang hồ, bốn biển là nhà, kết giao hào kiệt khắp nơi. Bi kịch của họ thường xoay quanh sự phản bội, xoay quanh việc rơi vào vòng xoáy của các âm mưu tủn mủn. Ở trong bối cảnh này, bi kịch thường là sự lựa chọn giữa tình và lý. Tuy nhiên, Cổ Long thường cho nhân vật của mình chọn lý và cái tình sót lại khiến họ dằn vặt cả đời. Sự ngạo nghễ, phớt đời hay các thói xấu, chẳng qua chỉ là sự che lấp cho nỗi dằn vặt ấy mà thôi.

Cái bi trong truyện Cổ Long không bị ảnh hưởng nhiều không khí của Trung Hoa mà có nhiều màu sắc của Shakespeare trong “Hamlet”. Cổ Long không có được lượng fan đông đảo như Kim Dung, nhưng văn chương của ông là nét chấm phá về tính cách nhân vật độc đáo và kỳ dị hiếm thấy trong nền văn học và phim ảnh đại chúng ở đất nước này.

Tác phẩm cuối cùng của Kim Dung là một cú lật ngược mọi cái bi trong thế giới võ hiệp. Ông đã tạo ra nàng công chúa Kiến Ninh mắc chứng khổ dâm. Mỗi khi làm tình, nàng ta thích bị đánh đập, chửi rủa. Cái bi, với Kim Dung, suy cho cùng là một sự khổ dâm tinh thần, thứ khổ dâm mà Trung Hoa đắm đuối trong nó. Với tác phẩm “Lộc Đỉnh ký”, Kim Dung đã vượt trội hơn mọi tác giả võ hiệp cùng thời như Cổ Long, Ngọa Long Sinh, vì chỉ có ông mới dũng cảm đạp đổ mọi giá trị, mọi chuẩn mực mà thế giới võ hiệp tôn thờ.

Kết luận

Cái bi trong văn hóa đại chúng đương đại đa dạng các khía cạnh hơn rất nhiều so với cái bi trong các lớp văn hóa trước đó. Cái bi chính là biểu hiện cho các dạng mâu thuẫn của thời đại. Tìm hiểu về cái bi, ta có thể hiểu về mâu thuẫn trong từng thời đại, trong từng nền văn hóa. Cách thức xử lý và lựa chọn thoát khỏi bi kịch cho ta thấy xu hướng tư tưởng định hướng xã hội. Thế nhưng, hiện nay, những “happy ending” trong các tác phẩm phim ảnh đại chúng là một điều gì đó ngớ ngẩn và không thật. Những kết thúc không có hậu hoặc kết thúc bỏ lửng luôn tạo cho người xem cảm giác hợp lý hơn. Liệu rằng, có phải vì cuộc đời quá khắc nghiệt và mâu thuẫn quá khó để giải quyết, hay chỉ đơn giản là vì con người đã quen “khổ dâm” nên không thể có những lựa chọn sáng sủa hơn dẫn tới kết thúc có hậu hơn. Thôi thì đó là câu hỏi dành cho khán giả.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Hai

Con đường viết của tôi (3): Sự “hay” muôn vẻ, chi bằng cứ đúng lòng mình

Các bạn click vào để đọc thêm:  “Con đường viết của tôi” 

“Hay” là một khái niệm rất chung chung. Đọc một áng văn tuyệt mỹ, anh bảo hay, tôi bảo dở, âu cũng là lẽ thường tình. Hay dở cũng như xấu đẹp, tùy vào trình độ cao thấp, và thói quen tư duy của người tiếp nhận. Bàn về lẽ hay dở, tôi đặc biệt tâm đắc với lời than của Hàn Phi Tử hơn hai ngàn năm về trước: “…lời nói thuận xuôi, trơn bóng, đẹp đẽ, văn vẻ thì bị xem là hoa mỹ mà không thật; lời nói thuần hậu, cung kính, cương trực, thận trọng thì bị xem  là vụng về mà không thứ tự; lời nói nhiều dẫn chứng, nhiều  tỉ dụ thì bị xem là trống rỗng mà vô dụng; lời nói tóm lược các điểm nhỏ và trình bày đại cương nên vắn tắt mà không tô điểm thì bị xem là giản tỉnh và không minh biện; lời nói thân mật và trúng tình người thì bị xem là tiếm mà không khiêm nhường; lời nói rộng rãi lớn lao, xa vời không lường thì bị xem là ngoa mà vô dụng; lời nói vụn vặt về chuyện trong nhà trong cửa, kể từ con số thì bị xem là thô lậu; lời nói gần đời mà giọng không bạo nghịch hì bị xem là tham sống mà siểm nịnh bề trên; lời nói xa thói tục, khác người thường thì bị xem là quái đản; lời nói mẫn tiệp, hùng biện có nhiều văn vẻ thì bị xem là không thật; lời nói không văn hoa chỉ trình việc thật thì bị xem là quê mùa, lời nói thường kể kinh Thi, kể phép tắc người xưa thì bị xem là lời kẻ tụng sách… Bởi vậy cho nên dụng cụ đo lường tuy trúng, cũng chưa chắc được theo, nghĩa lý tuy hoàn mỹ cũng chưa chắc được dùng…”. Viết hay đến mấy mà không tìm được người “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” với mình cũng kể như là tự mình thấy sướng cho bản thân mình mà thôi. Thế thì làm sao để viết “hay”, và lấy tiêu chuẩn gì làm thang đo cho cái sự “hay”?

Hay, có thể là do bài viết chạm tới vấn đề mà số đông quan tâm, dùng biện luận hoặc lối nói hài hước để thuyết phục. Hay, cũng có thể là chạm tới thẳm sâu trong tâm hồn người đọc. Hay, biết đâu lại nằm trong việc tạo ra sự mới lạ độc đáo mà người khác không thể bắt chước được. Hay với đại đa số đám đông chỉ là những trò múa máy câu chữ để thôi miên độc giả. Hay muôn vẻ lắm, nhưng trước khi đạt được đến sự hay, tối thiểu hãy viết một cách đúng đắn. Bản thân sự đúng đắn có cái hay của nó.

Viết đúng đắn có thực sự khó khăn tới vậy không? Không! Viết đúng đắn rất đơn giản, nhưng những kẻ bất lương trong nghề viết lại luôn cảm thấy viết đúng đắn là điều vô cùng khó khăn. Yếu tố căn bản để viết đúng đắn đó là “Nói có sách, mách có chứng”. Tức là, khi bạn đưa ra bất cứ một nhận định gì về tình trạng xã hội, bạn cần phải có bằng chứng và cơ sở rõ ràng, không thể bạ đâu phang đấy. Một bài viết vu vơ của bạn trên mạng có thể gây hại cho tâm trí của người khác, giống như một quân domino khi đổ có thể tạo ra hiệu ứng phá hủy hơn mức bạn nghĩ. Một thông tin bạn đưa ra khi chưa có kiểm chứng hoặc chưa chắc chắn đúng có thể tạo ra một niềm tin sai lầm cho cả đám đông và người  Một yếu tố quan trọng không kém đó là thật với lòng mình. Lòng mình không hẳn do mình quyết định mà do đủ các yếu tố bên ngoài tác động vào: từ truyền thống đến truyền thông, từ ám ảnh quá khứ đến những kỳ vọng tương lai. Nên thật với lòng mình không phải chỉ là “yêu ai cứ bảo là yêu/ ghét ai cứ bảo là ghét”, mà còn phải biết được cái lẽ yêu ghét của mình do cái gì chi phối.  Vậy nên, phải có bản lĩnh, phải có trí tuệ mới có thể “thật với lòng mình”. Đảm bảo được “viết đúng”, rồi bạn hẵng bàn đến “viết hay”.

Cái hay tuy không thể định nghĩa rõ ràng, nhưng có thể xem xét được tại sao một bài viết ta có thể đánh giá là hay. Khi đọc một bài viết “hay”, ta có hai trạng thái, hoặc là cái “hay” đấy phù hợp với não trạng của chúng ta, hoặc là cái “hay” là cái đột phá mà ta chưa từng nghĩ tới. Việc lựa chọn cái hay nào cũng tùy thời điểm, tùy độ tuổi, không thể lường trước. Ngay lập tức chọn kiểu “hay” này mà phủ nhận kiểu “hay” khác thì e rằng chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để mở mang tâm trí. Tuy nhiên, dù kiểu “hay” nào đi chăng nữa thì văn bản viết cũng cần phải phù hợp với học thức của người đọc. Một đứa trẻ mới học cấp 1 thì không thể thấy kịch Faust là hay, bởi nó không đủ kiến thức để hiểu các từ ngữ, không đủ trải nghiệm cuộc sống để hiểu các dằn vặt tâm lý, không đủ nhận thức xã hội để giải mã các ẩn ngữ bên trong… Và đương nhiên, một người đọc đủ các sách kinh điển với vốn kiến thức và hiểu biết rộng lớn, tự nhiên sẽ thấy những cuốn sách Nguyễn Nhật Ánh đang bán đắt khách hàng đầu kia là nhạt nhẽo. Nếu không có độ tương thích về vốn kiến thức và hiểu biết, người ta khó có thể thấy một văn bản là hay. Ấy chính là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” vậy.

Để đạt được cái “hay”, khó có thể hướng dẫn nhau. Hướng dẫn ai đó viết văn hay thực ra chỉ là hướng dẫn người ta cách lừa gạt thiên hạ. Điều quan trọng, suy cho cùng, tôi vẫn cho rằng, viết cho đúng mới thực là điều quan trọng. Một văn bản viết cho đúng đắn cũng đủ để không thẹn với người, không thẹn với mình. Lời đúng đắn thì chẳng nhất thiết phải suy tính trước sau mệt thân mệt não đắn đo như Hàn Phi Tử. Thời đó, Hàn Phi Tử còn sợ Tần Thủy Hoàng phật ý mà chém đầu chứ thời nay có ai chém đầu chúng ta đâu.

Với những người chưa có nhiều kinh nghiệm viết, chưa có kiến thức phong phú thì nên lấy sự đúng đắn là điều tâm niệm. Khi đặt viết điều đúng đắn làm trọng thì viết không còn là sự giãi bày nữa mà tự nhiên trở thành một phương thức để luyện tâm luyện trí, vừa mở rộng hiểu biết lại vừa nhận thức bản thân rõ hơn. Viết điều đúng đắn dần dần sẽ khiến chúng ta thấy chán ngán những sự bay bướm vô nghĩa hay những thủ thuật truyền thông khéo léo, dần dần chúng ta cũng nhận ra được những gì là chân giá trị trong cuộc đời, những gì chỉ là phù phiếm thoảng qua. Các cụ xưa nói, “văn chính là người”, vậy thì hãy làm người đúng đắn viết điều đúng đắn.

Hà Thủy Nguyên