Home 2017 Tháng Mười / page 2

“Anonymous” – Chỉ ý tưởng là bất tử

Bộ phim “Anonymous” (2011) do Roland Emmerich đạo diễn, đã đặt ra một giả thuyết khác về thân phận nhiều tranh cãi của William Shakespeare. Tác giả thật sự của những vở kịch và những bài thơ ký tên W. Shakespeare hay Anonymous là Edward de Vere, bá tước xứ Oxford dưới triều đại của nữ hoàng Elizabeth I. Bá tước là một người uyên bác, đam mê thi ca và kịch nghệ. Ông là người ảnh hưởng đến một cuộc nổi dậy của các bá tước chống lại gia tộc Cecil đang nắm quyền lực chi phối nữ hoàng lúc bấy giờ, nhưng họ đã thất bại. Edward de Vere từ một người giàu có và quyền lực cuối đời chết trong cô đơn, tuyệt vọng, nhưng hơn ai hết, ông biết rằng ngôn từ của ông có quyền lực hơn bất cứ vị thế chính trị hay sức mạnh quân sự nào. Một tư tưởng không thể nhìn thấy được, nhưng nếu biết cách làm nó sẽ thay đổi toàn bộ cục diện.

Những nhà văn là những kẻ thất bại trong cuộc sống, họ không làm ra của cải vật chất, họ không có quyền bính trong tay, họ – thậm chí còn bị thời đại của mình hiểu lầm, hắt hủi hoặc tệ hơn thế: lãng quên. Nhưng điều gì khiến họ chấp nhận tất cả những thiệt thòi ấy, cầm lấy cây bút và miệt mài đắm chìm trong những trang viết? Nhiều người đã đặt ra câu hỏi, viết để làm gì? Bà vợ của Bá tước Edward cũng đã đặt ra câu hỏi ấy. Edward kể cho người vợ chẳng bao giờ có sự đồng cảm với ông về những tiếng nói trong đầu, những thân phận đau khổ, những vần thơ bay bổng, những ý chí thời đại… Và với Edward, viết là một sự giải thoát. Và những người cùng thời với ông, giữa thời đại Nhà Thờ nắm quyền tối cao, ông thật sự là một “con người quỷ ám”. Chẳng phải vô lý, gia đình Cecil – đại diện cho Nhà Thờ – lại coi Nghệ thuật thuộc về Qủy dữ.

Không thể đọc văn chương thơ ca mà không sử dụng trí tưởng tượng. Chúng ta bắt buộc phải tưởng tượng các hình ảnh trong khi đọc, nếu không chúng ta sẽ không thể cảm nhận bất cứ điều gì. Như thể chúng ta tạo ra một bộ phim hoặc một bức tranh trong tâm trí của mình và ngồi xem rồi chiêm nghiệm những gì xảy ra trong đó. Khi các nhân vật trong tưởng tượng có cảm xúc, chúng ta cũng bị tác động. Chúng ta bị cuốn theo tâm trạng nhân vật, bị dẫn dắt bởi tư tưởng của tác giả một cách vô thức. Bằng sự hấp dẫn đầy mê hoặc của sự sắp xếp ngôn từ, các tác giả đã thôi miên chúng ta và chúng ta chấp nhận để họ cài cắm ý tưởng trong sự tự nguyện và hồ hởi. Đó là cách các tác phẩm dấy động cảm xúc và ảnh hưởng tâm trí của độc giả. Đó cũng là lý do tại sao văn chương – nghệ thuật lại nguy hiểm đến vậy, tại sao các tác giả luôn là nạn nhân của những cuộc “văn tự ngục”.

 

anonymous_movie_poster_rev_001_by_dwarr26-d4decge

 

Xa hơn những gì các chính trị gia có thể nhìn thấy về các tác phẩm văn chương, đó là chúng không dừng ở mục đích chính trị. Khi đọc từng câu từng chữ, theo dõi các biến cố diễn ra… chúng ta bị đẩy vào tình thế phải đối diện với bản thân mình. Chúng ta bắt đầu hoài nghi nhiều hơn về thực tại chúng ta đang sống, và dần dần nảy sinh câu hỏi: “Thế rốt cuộc bản chất của con người là gì?”. Vậy là chúng ta bước vào chặng đường khám phá chúng ta là ai. Khi chúng ta đặt câu hỏi về chính mình và quyết tâm dành cả đời để khám phá ra chân lý ấy, không một quyền lực chính trị nào, không một niềm tin tôn giáo nào, không một sự khoa trương vàng bạc nào có thể trói buộc được. Bởi thế, cái điều mà các Sách giáo khoa môn văn vẫn nhồi nhét vào đầu học sinh một cách sáo rỗng: “Văn chương làm chúng ta người hơn”, quả là không sai. Và biết đâu, những chính trị gia muốn vùi dập những tác phẩm văn chương, không hoàn toàn vì họ sợ chúng kích động người dân, có lẽ, họ sợ phải đối mặt với bản thân mình, như chính nữ hoàng Elizabeth I trong bộ phim.

Xong rồi thì, mọi đền đài, cung điện, mọi quyền lực, danh tiếng… đến một ngày cũng sẽ biến mất, ai rồi cũng phải chết. Và tại sao chỉ có ý tưởng là bất hủ. Đến giờ đây, khi chúng ta đã biết về Vũ trụ Toàn ảnh, khi loài người nhận ra rằng thông tin không được lưu trữ trong não bộ mà được cất giữ đâu đó ngoài vũ trụ bao la kia, thì sự bất tử của ý tưởng càng được khẳng định. Khi một nhà văn viết điều gì đó trên giấy, tờ giấy có thể bị hủy hoại, ông ta có thể không có tên tuổi, nhưng ý tưởng của ông ta có thể lan truyền trong dân chúng một cách bí ẩn, thậm chí kể cả khi ông ta bị người đời lãng quên, một ai đó ở thời đại sau sẽ kết nối được và làm sống dậy ý tưởng ấy. Edward de Vede có thể ẩn danh, mãi mãi là một kẻ “anonymous”, vì hơn ai hết ông ta hiểu rằng ý tưởng vĩ đại hơn tác giả. Những lời cuối cùng của Edward căn dặn lại Ben Johnson, một biên kịch đã phản lại ông trong cuộc nổi dậy, thể hiện một sự vượt thoát mọi cản trở của thứ thời đại chật hẹp để vươn tới những ý tưởng cao đẹp: “Ngươi có thể phản bội ta, nhưng ngươi không thể phản bội các tác phẩm của ta”.

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Mười / page 2

“Nghệ thuật và Vật lý” – Một tiến trình tương tác thay đổi tư duy của Văn minh phương Tây

 

Tiến trình của sách:

Tác giả đưa ra sự tương đồng của Vật lý và Nghệ thuật về mặt Không gian – Thời gian – Ánh sáng. Mỗi khi một nhà khoa học nghi ngờ về thực tại và tìm được cách lập luận hoặc minh chứng cho điều họ suy nghĩ về thực tại, thì nghệ sĩ trước đó nhiều năm đã có nhiều tác phẩm thể hiện ý tưởng về điều đó. Có lẽ vì vậy mà tác giả chủ yếu viết về nghệ thuật thị giác – một loại hình nghệ thuật gần gũi nhất với việc “nhìn” thế giới. Khi cái nhìn về thế giới thay đổi thì cách nghĩ của cả thế giới sẽ thay đổi theo: Từ thần quyền đến tuyến tính, từ tuyến tính đến độc tôn Kito giáo, và từ Kito giáo lại quay lại tuyến tính, và đến bây giờ chúng ta đang bàn với nhau về phi tuyến, và về không gian cong.

Cuốn sách nói về sự tương phản của não phải và não trái, Dionysus và Apollo… lần lượt thay nhau thống trị con người. Nhưng rõ ràng, với việc thay đổi cách nhìn thế giới trước thông qua nghệ thuật như hội họa, âm nhạc và văn chương đã tạo ra tiền đề cho các cuộc cách mạng về tư duy trên thế giới.

 

TÓM TẮT NỘI DUNG

 

Chương 1: Ảo ảnh/ Hiện thực

–          Tác giả đưa ra những mối liên hệ giữa Nghệ thuật và Vậy lý. Hai lĩnh vực này có sự tương đồng đó là cùng khám phá bản chất của hiện thực, cả hai đều coi trọng vẻ đẹp của sự thanh nhã và tính đối xứng. Dấu “=” trong Vật lý là một ẩn dụ cơ bản được nghệ sĩ sử dụng tương đương với các ký hiệu hay biểu tượng thông qua trải nghiệm.

–          Những cách tân trong nghệ thuật thị giác là giai đoạn tiền ngôn ngữ của các khái niệm. Từ các hình ảnh mới nảy sinh ra các ý tưởng trừu tượng và con người sử dụng ngôn ngữ để mô tả hình ảnh đó. Vì vậy, tác giả khẳng định nghệ thuật thị giác là loại tư duy nguyên thủy. Điều này tương đồng với sự phát triển của trẻ em.

–          Tuy nhiên, việc đẩy cao tư duy trừu tượng làm thui chột khả năng sáng tạo, vì để học một cái gì đó mới lạ, ta cần phải hình dung ra nó trước khi có khái niệm về nó. Con người khi trưởng thành hay ở trong các nền văn minh, đa phần nghĩ về thế giới thông qua các khái niệm mà không qua trải nghiệm hình ảnh. Tuy nhiên,  những nghệ sĩ vẫn giữ được khả năng tưởng tượng nguyên sơ này. Vì vậy, nghệ thuật là một hệ thống cảnh báo từ xa có khả năng tiên tri trước sự phát triển của nhân loại: sự chuyển dịch khái niệm, dự cảm về những khám phá khoa học. Và đó chính là sự vĩ đại của nghệ thuật. Khi nghiên cứu Qúa khứ, chúng ta đều thấy rằng Nghệ thuật luôn đi trước khoa học nghiên cứu về thực tại. Ngay cả khi những nghiên cứu đó được thừa nhận thì nghệ sĩ lại tiếp tục sáng tạo ra những hình ảnh hòa hợp với nhận thức mới.

–          Một vấn đề đặt ra là “Ta hiểu thế giới bằng cách nào?” Plato cho rằng bản chất thực tại mà chúng ta đang thấy chỉ là những thông tin thứ cấp và gián tiếp. Decartes khẳng định sự khác biệt giữa con mắt bên trong của tưởng tượng và thế giới sự vật bên ngoài. Nhưng đến Kant, ông cho rằng những thứ chúng ta nhận biết về sự vật đều thông qua xử lý của trí não, nên chúng ta không thể nhận biết về “vật tự nó”. Hay nói như Schopenhauer, “Thế giới chỉ là ý niệm của tôi”. Từ đó cho thấy năng lực để chúng ta nắm bắt cái ngoài kia chính là trí tưởng tượng. Chúng ta dựng nên môt thực tại tách biệt, được sáng tạo bởi ý thức tư duy, phi vật thể hóa. Bởi vậy,  chân lý chỉ là “sự phù hợp cái vẻ bên ngoài với thực tại” (Alfred North Whitehead). Sự nhất trí của một đám đông ở một giai đoạn lịch sử tạo ra hệ hình tư duy cho thời điểm ấy và quyết định dòng chảy nhận thức của các thế hệ.

–          Bốn cột trụ của Thực tại bao gồm: Không gian, Thời gian, Ánh sáng, năng lượng và vật chất. Tuy nhiên, trong sự liên hệ giữa Vật lý và Nghệ thuật, tác giả chỉ khảo sát các vấn đề Không gian – Thời gian – Ánh Sáng và chủ yếu dựa trên nghệ thuật thị giác (loại hình nghệ thuật gần gũi với Vật lý nhất).

 

images-venus

 

Chương 2: Nghệ thuật Cổ điển/ Triết học lý tưởng

–          Trong tất cả các nền văn minh cổ trên thế giới, thực tại luôn xoay quanh chuyện “bên trong” và “bên ngoài”, “thực” và “ảo” và họ lý giải bằng thần thoại. Nhưng người Hy Lạp đưa ra phương tiện mới để lý giải: “Lý trí”.

–          Người Hy Lạp đã hoàn thiện bảng chữ cái của người Phoenicia và bổ sung ngôn ngữ Indo-Aryan để tạo bảng 22 chữ cái bao gồm cả phụ âm-nguyên âm. Sự ra đời của bảng chữ cái làm tăng khả năng xử lý thông tin, đẩy cao tư duy trừu tượng và dần dần ngôn ngữ tách khỏi mối liên hệ với hình ảnh. Bảng chữ cái là biểu hiện đầu tiên của tư duy tuyến tính với chuỗi nhân quả. Thế nhưng, chỉ với hình học phẳng Euclide (300 TCN) thì tư duy tuyến tính mới có nền tảng vững chắc. Trong hình học phẳng, không gian là một khối rỗng không mà ta có thể bố trí các vật thể. Thời gian, theo quan niệm Hy Lạp cổ đại, mang tính tuần hoàn, nhưng họ lại hoang mang khi cái chết xảy đến mà không hề có sự tuần hoàn. Vì thế người Hy Lạp cổ đại, cụ thể là Aristote với phép Tam đoạn luận đã nắn dòng thời gian thành tuyến tính: Qúa khứ – Hiện tại – Tương lai. Nhưng trên thực tế chẳng có đường thẳng nào là hoàn hảo, người ta chỉ thấy đường thẳng duy nhất là đường chân trời. Với quan niệm về Không- thời gian như vậy, họ cho rằng ánh sáng là một dạng vật chất có thể chuyển động từ nơi này sang nơi khác.

–          Các họa sĩ Hy Lạp cổ đại từ trước khi có hình học phẳng Euclide đã đưa ra những tiêu chuẩn phối cảnh trong các công trình kiến trúc hoặc điêu khắc  để tạo cảm giác mặt phẳng như sau: Các cột ngoài phải dầy hơn các cột phía trong. Và mọi nguyên tắc đối xứng trong hình Tam giác cân(cơ thể người) và kiến trúc cổ điển đưa ra tỉ lệ 5-8 cho tất cả các công trình lý tưởng

Chương 3: Thiêng liêng/ Phàm tục

–          Từ năm 400 – 1250, chế độ Chính trị nhà thờ Kyto giáo đã phá hủy nền văn minh Hy Lạp cổ đại và tạo ra dạng tư duy riêng cho thời kỳ này. Kinh Thánh quan niệm không gian chia ra Thiên Đường – Trần gian – Địa Ngục, không gian cố định đã bị cắt khúc và thời gian không có tuyến tính chỉ bắt đầu sau Sáng thế ký (5000 TCN)

–          Trong đêm trường Trung Cổ, người ta chống đối tư duy duy lý, khiến cho các nghệ sĩ sáng tác không có nền tảng đành phải tạo ra hình thức mới. Thời kỳ đầu, trên tường các nhà thờ thường dùng các hình ảnh để kể lại Kinh Thánh (hậu quả của việc mù chữ). Tuy nhiên, phần đặc sắc nhất là mái vòm được làm dạng tranh ghép từ các mẩu vuông phản chiếu hòa tan tính vật liệu thành hình ảnh phi vật liệu.

–          Các họa sĩ thời kỳ này vô danh nên các tác phẩm thể hiện rõ sự phân mảnh, tuy nhiên vẫn có một dạng biểu tượng chi phối các mảnh của sáng tác, đó là các chủ đề về Chúa Jesus và các thiên thần…

–          Kinh Thánh cho rằng Ánh sáng là ngoại chất của linh hồn, có thể làm cầu nối giữa thời gian này và thời gian khác, là phương tiện để linh hồn có thể đi lại trong chiều Không – thời gian khác nhau. Kiến trúc Gothic nổi bật nhất  đối lập với Ánh Sáng. Ánh sáng đối lập với vật liệu nặng nề, ảm đạm, nhưng khi các cửa sổ kính màu đặt ở trên cao đã làm tăng ý niệm vật chất là vô nghĩa.

book_hunter_byzantine

Chương 4: Phối cảnh tính / Trạng thái nghỉ tuyệt đối

–          Phát minh máy in của Gutenberg vào năm 1445 đã đẩy cao ưu thế của chữ viết. Việc chữ viết được phổ biến rộng khiến cho tư duy tuyến tính của Euclide và Aristote được tái lập.

–          Tuy nhiên, từ thế kỷ 14, Giottto di Bonde đã mở đầu cho lối tư duy này qua các tác phẩm hội họa của mình. Ông là người vẽ được phong cảnh từ một điểm bất động được tổ chức theo một trục thẳng đứng và nằm ngang. Mô tả sự chuyển động của thời gian, ông làm “đóng băng” khoảnh khắc lại. Phối cảnh tĩnh là một tiến bộ kỹ thuật quan trọng được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như hàng hải, kiến trúc, quân đội.

–          Piero della Francesca là người đã đưa kỹ thuật “bóng” vào nghệ thuật. Ông cho rằng ánh sáng đi theo đường thẳng giống Aristote nên không thể xuyên qua vật chất. Vì thế bóng tối trở thành dấu ấn độc đáo về ánh sáng trong nghệ thuật.

–          Đến Leonard di Vinci, ông hoàn thiện hơn lý thuyết về bóng khi thấy rằng bóng của các vậ ở xa không sắc nét như ở gần, các vật ở xa cũng có những đường viền không rõ như những vật cận kề hơn.

–          Sự xuất hiện của các danh họa như Giotto, Leonard di Vinci, Michealangelo… là bắt đầu cho kỷ nguyên lấy con người làm thước đo của vạn vật, và kỷ nguyên của “anh hùng đơn độc”.

–          Cùng lúc ấy, Khoa học Hiện đại ra đời khi người ta bắt đầu có những so sánh kiểu tư biện triết học Hy Lạp. Khi Corpernicus vào thế kỷ 14 khẳng định Trái Đất hình cầu và xoay quanh Mặt trời thì chiều thứ ba của không gian bắt đầu được biết đến. Galileo đưa ra khái niệm “trạng thái nghỉ thuyệt đối” so với những chuyển động khác. Ông khám phá ra định luật con lắc và tìm cách chia nhỏ thời gian, làm tiền đề cho khái niệm vận tốc sử dụng trong vật lý. Cũng trong thời này, khoa vẽ bản đồ phát triển nhờ vào lĩnh vực hàng hải muốn mở rộng khám phá thế giới. Họ cần thống nhất chuẩn mực, trải phẳng kinh độ và vĩ độ, cũng như hợp nhất phút giây trên bản đồ. Vậy là Trái đất hình cầu đã được mô tả bằng một mặt phẳng.

Bữa tiệc cuối cùng - Leonardo da Vinci
Bữa tiệc cuối cùng – Leonardo da Vinci

 

Chương 5: Tiến diện Conic/Qũy đạo Elip

–          Các triết gia cổ Hy Lạp như Pythagores hay Plato đều đề cao sự đối xứng với các hình hoàn hảo như hình tròn, hình vuông, hình lập phương… Tuy nhiên họ đã coi thường tiết diện conic, mặc dù trên thực tế quỹ đạo elip phổ biến hơn rất nhiều.

–          Giotto là họa sĩ đầu tiên sử dụng tiết diện conic trong phối cảnh với phép chiếu ba chiều. Với phép phối cảnh này, Johannes Kepler (1571-1630) đã tìm ra quỹ đạo của hành tinh có hình elip. Với minh chứng trên, tác giả khẳng định người nghệ sĩ đã đi trước khoa học phân tích về sự vô hạn của không gian, tiết diện Conic và điểm tụ vô hạn.

 

Chương 6: Nghệ sĩ – Nhà khoa học/ Pháp sư – Nhà Vật lý

–          Newton với khám phá về Luật hấp dẫn đã làm giảm quyền lực của Chúa và khép lại thời Phục Hưng. Ông cho rằng ánh sáng tồn tại ở dạng hạt và không thời gian là tuyệt đối bất biến. Thực ra những điều Newton đưa ra thì Leonard Di Vinci đã đề cập đến từ thế kỷ 15.

–          Trong khi các nhà khoa học còn đang tranh cãi về bản chất của ánh sáng thì Francesco Grimaldi – một họa sĩ hậu Phục Hưng 1665 đã thấy trong cái bóng bao quanh các vật chắn sáng tồn tại một lớp mỏng các vân giao thoa. Từ đó ta có thể thấy ánh sáng là một dòng năng lượng có thể bao quanh các vật thể. Điều này gợi mở khám phá ánh sáng tồn tại ở dạng sóng trước Huygens đến 13 năm (1678).

Chương 7: Hợp lý/ Phi lý

–          Bước vào thế kỷ 18, khoa học thay thế Tôn giáo trong nền Văn minh Châu Âu. Họ tin rằng với lý trí, mọi thứ đều có thể lý giải bằng cơ học. Họ coi con người là một cỗ máy và vũ trụ chỉ bao gồm một chất liệu với nhiều biến thế. Triết học của thời kỳ này cũng dựa trên các lý thuyết duy lý. Độ chính xác trong nghệ thuật được đề cao hơn trực giác và chủ nghĩa Hiện thực nảy sinh. Thậm chí ngay cả những họa sĩ của Chủ nghĩa Lãng mạn cũng tuân theo quy tắc của duy lý.

–          Thế nhưng, ngay từ đầu thế kỷ 17, các nhà thơ lại là những người gìn giữ nghệ thuật và trực giác, chống lại logic và khoa học. Jean Jaques Rousseau (1712 -1778) cho rằng trực giác và tình cảm quan trọng hơn lý trí, tuy nhiên ông đã không thành công. Nhà thơ William Blake (1757 – 1827) là người kịch liệt phản đối nền tảng lý trí. Ông là người thường xuyên nhìn thấy thế giới bên kia và cho rằng Khoa học và Duy vật đem đến sự chết của con người. Những bài thơ của Blake có tính tiên tri vĩ đại, thậm chí những khám phá gần đây nhất về vũ trụ toàn ảnh đã minh chứng cho tiên cảm của ông.

Chương 8: Nghệ thuật Hiện đại/ Chiến thắng của Newton

–          Việc nhiếp ảnh ra đời tác động lớn đến không – thời gian và ánh sáng vào sau thế kỷ 18. Nhưng những mô tả về phát minh này đã được ghi chép trong những văn bản bị giấu kín của Leonard di Vinci.

–          Định đề thứ 5 của Euclide (qua một điểm cho trước chỉ vẽ được một đường thẳng song song với đường thẳng cho trước) đã được chứng minh là không đúng. Điều này phá hủy lý thuyết hình học phẳng. Năm 1854, George Rumann về hình học không gian với phát biểu về tổng các góc trong tam giác lớn hơn 180 độ, không có các đường thẳng song song, và khoảng cách nhất nhất giữa 2 điểm là một đường cong. Ông cho rằng bất cứ người nào bắt đầu một hành trình thì cũng quay về điểm xuất phát.

–          Trước đó, Edouard Manet với bức “Bữa trưa trên cỏ” đã phá bỏ luật phối cảnh khi vẽ không đúng tỉ lệ và ánh sáng của bức tranh như đèn chiếu rọi từ phía người vẽ vào sự vật. Trong bức “Những con thuyền”, ông đã xóa nhòe điểm tụ và uốn cong đường chân trời như thách thức với tư duy hình hỏng phẳng và phép phối cảnh.

–          Claude Monet đã phóng đại khoảnh khắc hiện tại qua việc chộp bắt ấn tượng của cái “bây giờ” – “tính tức thời” bằng những bức tranh vô hướng và chỉ là sự sắp xếp , pha trộn của các mảng màu. Các hình ảnh lan nhòa vào nhau, xóa bỏ đường viền. Ông cho rằng màu sắc (ánh sáng) phải được nâng lên ngôi vị hàng đầu trong nghệ thuật.

–          Paul Cezanne trong tác phẩm của mình đã đưa ra một cách tân về ánh sáng: Ánh sáng không chiếu thẳng theo dạng tia, chòm mà là tản mát với nguồn và hướng không rõ ràng. Ta thấy rõ điều này trong bức “Đỉnh Sainte Victoire”.  Ngoài ra ông phá bỏ việc chỉ có một điểm phối cảnh duy nhất mà cho rằng bức tranh có thể có nhiều điểm phối cảnh khác nhau.

–          Với những ví dụ trên, ta có thể thấy rằng khi người ta nhìn không gian theo cách phi Euclide thì cũng sẽ bắt đầu suy ngẫm về nó theo cách mới.

Bữa trưa trên cỏ - Manet
Bữa trưa trên cỏ – Manet

Chương 9: Einstein/ Không gian, thời gian và ánh sáng

–          Năm 1905, Einstein công bố nghiên cứu về thuyết tương đối hẹp của Galileo và đưa ra quan điểm: không gian, thời gian là tương đối, chỉ có ánh sáng là không thay đổi tốc độ. Thời gian mang tính tương đối và phụ thuộc vào vận tốc của người chuyển động. Khi chuyển động với vận tốc tang dần thì sẽ đem Qúa khứ và Tương lai xích lại gần nhau. Các vật thể trong không – thời gian sẽ biến dạng khi con người chuyển động đạt tới vận tốc ánh sáng. Điều này hoàn toàn đối lập với Euclide vốn cho rằng vật không bao giờ bị biến dạng nếu không có trọng lực tác động.

–          Einstein đã đạp bỏ trạng thái nghỉ tuyệt đối và ánh sáng không phải chỉ làm nền mà còn được đặt cao hơn không – thời gian, phá vỡ kiểu tư duy nhân quả mà Zeno đã từng lập luận chống lại. (Ở thời Hy Lạp cổ đại, lập luận về Achilles và con rùa bị coi là ngụy biện). Einstein cho rằng thực tại mà ta thấy chỉ là một mảnh nhỏ của viên kim cương.

–          Điều này đã làm thay đổi quan điểm về màu sắc.Trước đó, người ta tin rằng màu sắc là thuộc tính thâm căn của sự vật. Màu sắc chỉ mang tính tương đối, không chỉ liên quan đến cấu tạo của vật thể mà còn phụ thuộc vào vận tốc và hướng chuyển động so với người quan sát.

–          Ngoài ra thuyết tương đối hẹp đạp bỏ khái niệm thiêng liêng cho rằng thế giới bên ngoài là một thực tại khách quann và không thể bị con người tác động. Học thuyết khẳng định tính chủ quan của con người, và con người có thể ảnh hưởng tới thế giới khách quan. Những nghiên cứu đó đều được thấy trong tranh của trường phái ấn tượng như Manet, Monet, Cezanne… và họ đã đi trước Einstein cả trăm năm.

Chương 10: Nghệ thuật hồn nhiên/ Thời gian phi tuyến

–          Jean Piaget ở đầu thế kỷ 20 – một nhà nghiên cứu tâm lý học trẻ em đã chứng minh rằng: trẻ em dưới một năm tuổi không nhìn thấy sự bền vững của vật thể, chúng thuôn thấy sự thay đổi hình dạng của vật. Kèm với điều đó, trẻ không hề có nhận thức về thời gian. Chỉ khi lớn lên, đứa trẻ mới nhận thức về không gian và thời gian theo hướng tách biệt nhau. Trẻ thơ làm nhòe ranh giới tư duy và hành động, không gian trong và ngoài, giữa hành động tự nguyện và tính nhân quả; tất cả dẫn đến việc trẻ thường tin rằng tập trung năng lực tinh thần cho một mục đích, khát vọng thì có thể tác động lên hiện thực khách quan. Điều này rất gần với người dân của các nền văn minh trước thế kỷ 6 TCN. Nhờ vậy, các đặc tính của trẻ là trí tưởng tượng, vui vẻ, niềm thôi thúc sáng tạo nghệ thuật

–          Tranh của Henri Rousseau thể hiện sự bóp méo hình theo cách vẽ của trẻ con, tạo sự vui tươi, khác hoàn toàn với các bức tranh trước đó với gam màu trầm.

–          Cùng thời điểm này, văn học cũng xuất hiện những câu hỏi lớn về bản chất thực tại và thể hiện qua cách nhìn thế giới của trẻ thơ. Đáng chú ý là tác phẩm “Alice in wonderland”. Trong tác phẩm, tác giả Lewis Caroll để Alice phình to và thu nhỏ bất thường, một biểu hiện của sự bóp méo không thời gian. Và lời thoại của nữ hoàng Đỏ đã phá vỡ tính nhân quả: “Bây giờ, tại đây, nhà ngươi sẽ thấy: nhà ngươi phải cắm đầu cắm cổ chạy hết sức, để ở y nguyên một chỗ”.

woman-in-red-in-the-forest-henri-rousseau
Người phụ nữ mặc vays đỏ trong rừng – Henri Rousseau

Chương 11: Nghệ thuật nguyên thủy / Không gian phi Euclide

–          Các bộ lạc nguyên sơ không coi trọng việc con người phải phù hợp với hiện thực bằng việc phải tạo ra hiện thực. Điều này đối lập với quan điểm của Plato và Aristote vốn cho rằng con người có bản năng bắt chước thiên nhiên.

–          Cũng giống như trẻ con, những bộ lạc nguyên thủy không đo đạc thời gian và không để ý đến thời gian.

–          Nghệ thuật của người nguyên thủy thể hiện những hình dạng bị bóp dài ra, đường cong được chuộng hơn đường thẳng, thiếu phối cảnh và không có bóng của vật thể. Cách nhìn này còn đúng bản chất của sự vật hơn nhiều so với văn minh châu Âu.

–          Tư tưởng quay về với nguyên thủy ta có thể thấy rõ trong bức “Chiếc bè của Medusa” (Theodore Gericault): Một toán thủy thủ ở trên bè, khi những người da trắng đã buông xuôi đợi chết thì những người da đen vẫn đầy sức sống để tìm cách thoát chết. Sau đó là tác phẩm “Người dụ rắn” Henri Rousseau sử dụng nhiều bút pháp của người nguyên thủy. Ngay cả Paoblo Picasso – họa sĩ vĩ đại của trường phái lập thể cũng bị ảnh hưởng trong việc sáng tác bức “các cô nàng ở Avignon”. Sự quay về với nguyên thủy này cùng một giai đoạn với Einstein và Minkowski phát biểu về “continuum” (vật vĩnh cửu)

Chương 12: Phương đông/ phương tây

–          Sự xâm lược thuộc địa và buôn bán tạo sự giao lưu với văn minh châu Á, và nền văn minh này gây ảnh hưởng đén Manet, Monet, Degas, Gauguin và Van Gogh.

–          Không gian trong quan niệm của châu Á là không gian rỗng.(Bức “cảnh sương mù” của Kano Tangu). Các nhà khoa học thế kỷ 20 đã tìm ra các hạt vật chất trong thực tế lại được tách xuất ra từ một trường trống rỗng bằng các thăng giáng lượng tử. 70 năm trước thuyết tương đối của Einstein, Hokusai không những gợi ra bản chất tương hỗ giữa không + thời gian mà còn bác bỏ quyền tối cao của địa điểm quan sát qua bức tranh vẽ 36 góc nhìn khác nhau về núi Phú Sĩ.

–          Các họa sĩ Trung Hoa cho rằng người vẽ, người xem đều ở trong phong cảnh chứ không phải ngắm nhìn nó từ bên ngoài. Người Trung Quốc coi việc bắt chước thiên nhiên là một trò trẻ con. Họ coi nghệ thuật là một phương tiện để suy tư.

–          Thời gian của người phương Đông là một dòng sông và nhận thức như một người đàn ông đứng bên bờ sông, mặt xuôi về hạ lưu dòng chảy. Tương lai tiến đến anh ta từ phía sau và trở thành hiện tại đúng vào thời khắc nó đi ngang qua chỗ anh ta. Khi anh ta hiểu được hiện tại thì nó thành quá khứ ngay trước mắt.

–          Khái niệm các chu kỳ ở Aztec và quan niệm thần bí Hindu quy thời gian về chỉ là một cái “bây giờ vĩnh viễn”. Ở Ấn Độ, người ta cho rằng thời gian chỉ là ảo tưởng, thời gian không hề diễn tiến, mà chỉ có cái “bây giờ vĩnh viễn” là đích thực. Điều này phải chăng rất tương đồng với “trạng thái nghỉ tuyệt đối” trong lý thuyết của Einstein?

–          Cách vẽ của người phương đông là trạng thái liên tục nhập đồng, không có thời gian để tính toán hay chỉnh sửa. Ngoài ra, các họa sĩ không đưa vào tranh ánh sáng mà chủ yếu là tông đen trắng hoặc các màu mờ nhạt, cũng như không hề vẽ bóng. Việc không nhấn mạnh màu sắc khiến người xem không thể nào đoán định được thời gian.

Chương 14: Trường phái dã thú/ Ánh sáng

–          Cùng thời điểm, 3 trường phái khác nhau đã cùng có sự tương đồng với thuyết Einstein: Dã thú với nhấn mạnh màu sắc, độc tôn ánh sáng; Lập thể với biến thể mới về thời gian từ hình học phẳng Euclide; Vị lai nhấn mạnh đến thời gian bằng cách nới rộng hiện tại để lấn vào quá khư và tương lai.

–          Bức tranh của Matisse với các kích thích về màu sắc vào các giác quan mở đầu cho trường phái Dã thú. Trước đó, tranh đề cao đường nét với gam màu nhẹ. Người xưa cho rằng những người nhạy cảm với màu sắc hơn đường nét là người chịu ảnh hưởng của Dionyeus và không thể tin cậy được. Người ta thường có quy định trong màu sắc trang phục là để tiết chế cảm xúc và tác động lên nhận thức. Màu sắc là thứ không thể mô tả được bằng não trái, vì người ta thường có các tiêu chuẩn về màu xanh lá cây khác nhau. Màu sắc vừa là sự thật, vừa phụ thuộc vào cảm xúc.

–          Sau giai đoạn của Chủ nghĩa ấn tượng, màu sắc đã được giải phóng, trở nên nhẹ nhõm và tươi tắn hơn mà tranh của Van Gogh là đỉnh cao của màu sắc và ánh sáng.

–          Quan niệm cũ cho rằng màu của sự nguyên thủy là màu đỏ, màu của sự tiết chế là xanh. (Đỏ là của lửa, xanh là của băng) Màu xanh thể hiện cho sự quý tộc. Thế nhưng, khoa học chỉ ra rằng màu đỏ không phải màu nóng nhất, mà màu lam còn nóng hơn (phần lam trong ngọn lửa) và thứ ánh sáng đen (tia cực tím) là nóng nhất. Tìm hiểu về vũ trụ, ta thấy những ngôi sao màu trắng xanh là những ngôi sao trẻ đang rực cháy. Trong khi những ngôi sảo đỏ đang lụi tàn dần. Trong vật lý hiện đại, đỏ là màu của dãn nở và khoảng cách, còn xanh lam là màu của hút gần, đâm va và co lại. Việc thiên hà chỉ dịch về phía đỏ của quang phổ đã chỉ ra rằng vũ trụ đang nở ra. Thế nên thực ra lại là màu xanh là màu của lửa, còn màu đỏ là màu của băng.

–          Trong bức tranh “Vũ điệu” của Henri Matisse đã biểu đạt được ý tưởng của ngành vật lý hạt nhân: Bản thân sự sống dựa trên nguyên tử Carbon, nguyên tử mà orbital ngoài cùng có 4 electron mang điện tích âm quay vòng quanh một hạt nhân mang điện tích dương. 4 electron luôn tìm đến 4 electron khác để kéo chúng vào cuộc, bắt đầu quá trình liên kết mạch khớp với nhau của sự sống. Điều này tương đồng với bức tranh vẽ 5 vũ nữ trên nền xanh cô ban nắm tay nhau nhảy múa. Trong đó có 2 cô rời tay nhau ra như chào gọi thêm.

Vũ điệu - Henri Matisse
Vũ điệu – Henri Matisse

Chương 14: Lập thể/ Không gian

–          Đây là trường phái hội họa có ý tưởng lắp ghép các mảnh của mặt phẳng với nhau để tạo ra không gian đa chiều. Không – thời gian giống như hình phản chiếu trên mặt hồ gợn sóng.

–          Baraque, Picasso, Kadinsky đều nén nhiều chiều không gian trên một mặt phẳng và vì thế tác phẩm sẽ có nhiều điểm nhìn khác nhau. Tranh lập thể không có khái niệm về thời gian, vì chỉ nhấn mạnh sự đông cứng thời gian. Vì thế, bức tranh không có độ sâu và phá bỏ luật cận viễn trong tranh cổ điển.

Chương 15: Vị lai/ Thời gian

–          Ra đời ở Italy với người kích động là Fillipo Tommasco Marinetti, ông cho rằng xã hội mang nợ quá khứ quá nhiều và phải phá bỏ quá khứ của văn minh phương tây.

–          Trường phái này chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa ấn tượng, nhưng đi xa hơn bằng cách đặt các khoảnh khắc chồng lên nhau. Nổi tiếng nhất là bức “động lực học của con chó bị xích” (Giacombo Balla) và “Khỏa thân đi xuống cầu thang” (Duchamp)

Chương 16: Trường phái siêu thực/ Bóp méo theo thuyết tương đối

–          Khi thuyết tương đối rộng của Einstein vẫn còn quá khó hiểu với giới tinh hoa thì hội họa cũng đi vào các trường phái không thể hiểu được. Thế nhưng, sự ra đời của lý thuyết về vô thức của Freud dùng để lý giải các lớp ngụy trang trong con người nói chung và hội họa nói riêng đã đưa ra “trạng thái mơ”, thì chúng ta đã có thể lý giải: Họa sĩ là người chuyển các giấc mơ lên tranh.

–          Sự bóp méo hình trong tranh Salvadore Dali, thời gian bị chặn đứng của Magritte, “Trời và nước” của Escher đều minh họa cho thuyết tương đối của mình.

Christ - S.Dali
Christ – S.Dali

Chương 17:  Nghệ thuật trừu tượng/ Vật lý không hình ảnh

–          Nghệ thuậ trừu tượng bắt đầu với Kadinski 1910, nhưng chỉ phát triển với Jackson Pollock với bức “Đen và trắng”, thể hiện going gian giăng mắc trong một ma trận.

–          Quan niệm hình nó về không thời gian của Minkowski cho rằng không thời gian như  2 hình chóp chạm đỉnh của  2 khối được quy định bởi ánh sáng. Người ở trong vùng ánh sáng không nhận thức được vùng bóng tối. Ý tưởng này ta có thể thấy trong tác phẩm “Cột tháp vỡ” của Newman.

Chương 18: Biến cố/ Sự kiện

–          Trường phái hậu thể hiện trừu tượng đưa ra tính đồng thời của không thời gian hiện tại, và chúng ta bước vào thời kỳ trình diễn bằng cách kết hợp nhiều yếu tố.

–          Họa sĩ lừng danh: Jasper Johns (“0 đến 9”),  Andy Warhol ghép các nhãn hiệu thương mại thành tác phẩm hay ông còn quay các chuyển động chậm của bầu trời, vạt nắng…

Chương 19: Âm nhạc/ Hội họa/ Vật lý

–          Nếu nghệ thuật tạo hình là sự thám hiểm không gian thì âm nhạc là thám hiểm thời gian. Con người có một cao độ hoàn hảo được mã hóa trong chuỗi DNA. Vì thế, con người là một phần của bản giao hưởng.

–          Người Hy Lạp coi trọng âm nhạc. Họ cho rằng âm nhạc có thể làm điên đảo tâm trí như Sirene làm điên đảo các thủy thủ khi cất lên tiếng hát. Pytharore phát hiện ra rằng khi chia dây đàn ra các số nguyên, ông đã tạo ra một nửa số nốt trong một quãng tám, và từ đó âm nhạc lý trí bắt đầu.

–          Thời trung cổ, các chỉ huy dàn đồng ca đã cắt nhỏ giai điệu tuyến tính thành nhiều phân đoạn và sắp xếp lại, tạo thành hình thức diễn xướng, vượt lên khỏi khúc thức. Sau đó, phức điệu ra đời bao gồm các giai điệu trùng khít lên nhau. Thế kỷ 14, ký âm ra đời để ghi lại các phức điệu trùng khít, tạo thính giác 2 chiều (chiều cao và chiều ngang) Việc chuẩn hóa ký âm và sự ra đời của máy in khiến âm nhạc có thể in và lưu truyền được, làm chức năng sáng tác và biểu diễn tách biệt hẳn. Tính cá nhân dần hình thành. Thế rồi hợp âm ra đời thể hiện độ sâu (nhấn nhả) của bản nhạc. Vậy là một không gian ba chiều trong âm nhạc đã hình thành và người ta không cần lời trong âm nhạc, tương đương với việc trong cách bức tranh bắt đầu bỏ dần chữ viết kèm để có được sự độc lập.

–          Tổ chức của cả vật lý, hội họa và âm nhạc đều dựa trên một giao cắt giữa phương thẳng đứng với phương nằm ngang. Khi phép phối cảnh ra đời thì các nhạc sĩ cũng vạch ra tạo độ của phép ký âm: sử dụng các dòng cao độ ngang và khuông nhịp đứng trong khi các nhà khoa học dùng đồ thị hàm số.

–          Do các nhà soạn nhạc ngày càng tạo ra âm nhạc phức tạp nên âm nhạc càng rời rạc. Lúc này, “basso contiuo” (hòa âm giọng trầm) chạy suốt bản đệm bằng nhạc cụ phím, thường kèm với ca sĩ đã cứu nguy cho âm nhạc. Chính nhóm “camerata” lần đầu tiên đưa ra phương thức này và đề cao tính cá nhân (giọng hát). Vở nhạc kịch đầu tiên được trình diễn của Jacopo Peri có tên Daphne đã mở ra thời kỳ mới cho âm nhạc. Tính cá nhân cũng gắn với sự ra đời của đàn phím Claivier piano: nhạc cụ hoàn thiện nhất phục vụ cho một người chơi mà vẫn có thể phối hợp với dàn nhạc.

–          Cuối thế kỷ 18, vai trò của nhạc sĩ chỉ huy được đề cao. Chỉ huy không chơi nhạc cụ nhưng lại có vai trò chủ đạo khi các nhạc cụ đều hướng về chỉ huy.

–          Đầu thế kỷ 20, âm nhạc bị rơi vào thời kỳ hỗn loạn của vật lý và nghệ thuật. Arnold Schoenberg hòa tấu bộ dây 6 người với bản “Đêm biến hình” (1905) đã mở đầu cho âm nhạc phi điệu thức. Phi điệu thức là không có âm điệu, sự nghịch âm trở thành hòa âm. Phi điệu thức đã được Beethoveen thử nghiệm bằng các biến âm, Wagner biến âm từ âm điệu này sang âm điệu khác, De Bussy bắt đầu sáng tác Chủ nghĩa ấn tượng vào những năm 1880, Richard Straus tích hợp nhiều âm điệu một lúc giống trường phái lập thể. Từ đó, Schoenberg tạo ra sự bình đẳng cho các quãng âm và âm điệu, đặt ra quy tắc cho phi âm điệu sao cho không âm nào được coi là ưu ái hơn âm nào, bởi vì từng nốt đều được vang lên trước khi nốt khác được chơi tiếp. Năm 1913, vở “Lễ đăng quang mùa xuân” của Stravinsky tạo ra một cuộc ẩu đả hỗn loạn trong thính giả vì đã phá vỡ ý niệm về thời gian tuyệt đế, để âm nhạc trôi theo nhịp.

–          Sự ra đời của Jazz Dixieland ở cùng thời kỳ này đã phá vỡ giai điệu thành các tầng tách biệt, rất gần với hội họa Lập thể.

–          Vật lý khám phá ra rằng âm thanh không phải là được tạo nên bằng các phân tử dao động mà là một quá trình nóng sáng. Từ âm nhạc đến ánh sáng, đó là khởi nguồn của máy phát thanh. Và khi máy phát thanh ra đời, chúng ta có thể lưu trữ và truyền âm nhạc đi khắp vũ trụ.

Chương 20: Hình thức văn chương/ Công thức Vật lý

–          Từ thế kỷ 7 – 4 TCN, nghệ thuật ngôn từ cùng với hội họa, điêu khắc, kiến trúc nở rộ, nhưng đều dựa trên huyền thoại và truyền thuyết. Nhưng sau khi Homer viết các câu chuyện dựa trên lịch sử thì người ta đã được phép “ngờ vực chân lý” bằng cách “bịa”.

–          Thời kỳ Trung cổ với sự tàn phá sách vở, nhiều tác phẩm lớn bị hủy, nhưng người Hồi giáo lại bảo vệ được nền tảng của nền văn minh phương tây. Văn chương trung cổ vì thế không có nền tảng, và cũng giống như tranh, được sáng tác thoe kiểu phân mảnh.

–          Tác phẩm “10 ngày” (Giavanni Boccacio) là nguyên mẫu tiểu thuyết đầu tiên có cốt truyện, cùng thời với Giotto và phép phối cảnh tĩnh, tạo nên nền tảng của tư duy logic.

–          Thế nhưng ngay sau đó, một loạt các tác phẩm “Qúy bà Bovar” của Flaubert, truyện trinh thám Edgar Allan Poe, “Tội ác và trừng phạt” của Dostoyevsky, “Cỗ máy thời gian” của H.G Wells và Jules Verne, James Joyce… lần lượt nói đến trực tiếp hoặc thể hiện qua bút pháp về sự bóp méo không – thời gian.

Chương 21: Qủa táo của Newton/ Qủa táo của Cezanne

–          Lý thuyết của Einstein đã đạp đổ lý thuyết của Newton, nhưng trước đó hội họa đã ô tả các vật ở trạng thái không trọng lực, vô hướng và lơ lửng trong không thời gian.

–          Bức tranh phi lí của Cezanne về quả táo nằm trên mặt phẳng nghiêng lại không hề bị rơi đã đánh bại quả táo của Newton.

Chương 22 Không gian – thời gian/ Khối lượng – năng lượng

–          Newton cho rằng khối lượng và năng lượng là những cái được định vị và thực hiện trong không thời gian. Định luật bảo toàn năng lượng và khối lượng của ông đã bảo vệ cho lý thuyết này.

–          Einstein cho rằng không – thời gian và khối lượng- năng lượng đồng nhất với nhau trong phương trình E=mc2. Chúng ta thường không cho rằng trọng lượng của một quả táo sẽ phụ thuộc vào không thời gian tồn tại của nó, mà thực ra nó đã uốn cong thời gian sát xung quanh nó. Khối lượng của vật đã nén không gian ở bề mặt vật đang xét khiến thời gian nở ra trong vùng gần khối lượng. Đó là nguyên nhân khiến người ở ngoài vũ trụ trẻ lâu hơn trên mặt đất.

–          Khối lượng ảnh hưởng đến màu sắc, ánh sáng khi ở gần một vật sẽ dịch chuyển đến vạch màu lam. Einstein đưa ra kết luận: lực hấp dẫn có vẻ như là gia tốc trong không thời gian cong, tương tác với tương đương khối lượng – năng lượng trong 4 chiều và ánh sáng sẽ uốn cong khi chúng đi gần vật thể có khối lượng lớn.

Chương 23: Các dạng thức phi trọng lượng/ Các lực hấp dẫn

–          Các tác phẩm của Manet, Degas luôn ở trong tình trạng vô trọng lượng, còn Marc Chagall thì vẽ những người đang bay… Tất cả đều thể hiện sự thoát khỏi lực hấp dẫn, hay khẳng định luật hấp dẫn là một ảo giác.

Chương 24: Khối lượng điêu khắc/ Không-thời gian bị uốn cong.

–          Nghệ thuật đương đại phát triển mạnh ý tưởng thoát khỏi lực hấp dẫn với các cấu trúc điêu khắc kì dị. Tác phẩm “Merzbau” làm từ rác đã biểu hiện cấu trúc bên trong lấp dần đầy. Năm 1932 với “Bẫy tôm hù”, Calder đã tách tượng ra khỏi bệ đỡ. Năm 1960s, Robert Smithson lắp ghép những hòn đá thành dấu hiệu độc đáo của thiên hà, gán kết quả đất với sao trời, diễn tả về lực hấp dẫn xoắn cuộn không thể cưỡng được cáo vì sao.

–          Nghệ thuật và vật lý đã mở đường cho khám phá bản chất của luật hấp dẫn và giải thích bí ẩn về thực tại.

Chương 25: Tôi/Chúng ta

–          Làm thế nào mà nghệ sĩ tại tiên cảm được. Tác giả đưa ra giả định “zeitgecst”, một nhiễu động nào đó không xác định trong không khí đã ngưng tụ gây ra thay đổi đồng loạt.

–          Khái niệm “cái tôi” kết thúc ở lớp da của chúng ta, và khi ra khỏi môi trường dó thì “không phải tôi”. Chính “cái tôi” này dẫn đến quan niệm rằng trí tuệ là một thứ riêng rẽ.

–          Tác giả dùng thuyết tiến hóa, khoa họ não bộ và thần học. Qua nghiên cứu về cách đàn kiến hình thành, giao tiếp, phân bổ và lụi tàn, tác giả khẳng định rằng có một thứ gọi là “trí tuệ vũ trụ” mà nghệ sĩ có đủ trực giác nhạy cảm để có thể liên hệ.

Chương 26: Phải/Trái

–          Tác giả đưa ra cấu tạo 2 bán cầu não: trái/ phải. Não trái phục vụ ngôn ngữ, tư duy trừu tượng, ảm giác về những con số và chuỗi hành động. Não phải phục vụ nhận biết hình ảnh tổng thể, ẩn dụ, thưởng thức âm nhạc tốt.

–          Con người là loài tiến hóa cao nhát với một bộ não kép hoàn hảo

Chương 27: Không gian – Thời gian

–          Sự tiến hóa của muôn loài không phải chỉ ở mặt vật chất mà còn ở nhận biết. Càng ở mức độ cấu tạo hoàn thiện hơn, loài vật nhận biết về không thời gian chuẩn xác hơn.

Chương 28: Dionysus/ Apollo

–          Hai hình mẫu tư duy của não trái (Apollo) và não phải (Dionysus), sự đối kháng của nghiêm nghị và phóng túng, trực giác và lý trí, mà cụ thể nhất là thể hiện qua âm nhạc: classic và jazz.

Chương 29: Nghệ thuật/ Vật lý

– Trong thần thoại Hy Lạp có vị thữ thần “Techne” vừa liên quan đến“Technique” vừa gắn với nghệ thuật là động từ “tikein” (sáng tạo), nàng

là cảm hứng cho cả khoa học lẫn nghệ thuật.

–          Đến gần đây các nhà khoa học đã chỉ ra trí óc có thể không phải ở dạng vật chất và nằm ngoài phạm vi của khoa học. Nghệ thuật mang tính cách mạng luôn tiên báo các sự việc xuất hiện vượt tầm thời đại.

–          Năm 1974, Lawrence Weizkrantz, một bác xi nhãn khoa đã tìm ra: khả năng “thấu thị mù”. Chúng ta hoàn toàn có thể nhìn thấy được những thứ mà Vật lý không thể thay thế.

 

ĐÁNH GIÁ VỀ CUỐN SÁCH “NGHỆ THUẬT VÀ VẬT LÝ”

–          Cuốn sách đã điểm xuyết một tiến trình tương tác chạy dọc suốt chiều dài lịch sử văn minh phương Tây của hai lĩnh vực: Nghệ thuật và Khoa học. Leonard Shlain đã làm được điều Leonard di Vinci tâm niệm: “Để có một tư duy hoàn hảo, cần phải rèn luyện khoa học của nghệ thuật và nghệ thuật của khoa học. Học cách để nhận biết và thấy rằng mọi thứ đều có sự nối kết với nhau”

–          Mặc dù trước tuyết tương đối rộng của Einstein, các họa sĩ đã tiên cảm được nhiều điều và đi trước khoa học, nhưng sau đó, khoa học phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều và đã bỏ rơi nghệ thuật. Nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật thị giác chỉ còn là sự mô phỏng của các học thuyết khoa học mới. Dường như Leonard Shlein vì quá yêu nghệ thuật đã không thể chấp nhận thực tế này.

–          Tác giả đưa ra khái niệm “trí tuệ vũ trụ” để lý giải cho sự tương đồng trong cách khám phá thế giới của nghệ thuật và tương đồng, nhưng đây là một điều “bất khả tri” ở thời điểm ông viết quyển sách. Mới đây, những khám phá về sự toàn ảnh của vũ trụ và bộ não, người ta đã có thể lý giải phần nào về sự kết nối giữa cá nhân và vũ trụ vô biên.

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Mười / page 2

Công chúa và hạt đậu

Ngày xửa ngày xưa, ở một vương quốc xa xôi…

Chuyện đã từ lâu lắm rồi, khi mà tình yêu của những chàng hoàng tử và những nàng công chúa vẫn còn vô cùng đẹp đẽ, có một nàng công chúa vô cùng xinh đẹp và hoàn hảo. Khắp vương quốc đều yêu mến và ngưỡng vọng nàng như một nữ thần, nhiều vị vua trẻ tuổi, nhiều hoàng tử hào hoa đua nhau đến cầu hôn với biết bao những báu vật hiếm có trên thế gian. Nhưng tất cả đều thất vọng ra về. Bởi lẽ, điều nàng thật sự chờ đợi là một … chàng hoàng tử hoàn hảo.

Đợi mãi… đợi mãi… chưa một chàng hoàng tử nào thật sự khiến nàng cảm thấy sự hoàn hảo cả. Khoảng trống trong lòng nàng ngày càng lớn mà vương quốc thì quá nhỏ bé. Những chàng hoàng tử nàng biết không có hi vọng là sẽ trở nên hoàn hảo. Nàng quyết định sẽ rời khỏi vương quốc, đến bất cứ nơi đâu trên thế giới, để có thể tìm ra một chàng hoàng tử thật sự.

Nàng khoác trên mình chiếc áo choàng trắng tinh nhẹ như bộ lông của chim thiên nga, trèo lên lưng con ngựa yêu quý và để lại vương quốc quen thuộc từ lúc chào đời. Mặt trời lúc ấy đang lên, nàng ngắm mặt trời và mỉm cười. Ánh sang thanh khiết chiếu thẳng vào đôi mắt trong veo của nàng, mang cho nàng sự ấm áp, bình yên… Giá như các chàng hoàng tử có thể khiến nàng mỉm cười như mặt trời.

Đơn thân độc mã, nàng vượt qua không biết bao nhiêu cánh rừng, không biết bao nhiêu ngọn núi, và nàng đã đến một vương quốc hoàn toàn mới. Vương quốc thật vô cùng tuyệt đẹp và kỳ thú. Khắp nơi đều được phủ bằng hoa hồng đỏ rực rỡ, còn những ngôi nhà được xây bằng đá trắng sáng.

Chưa bao giờ nàng nhìn thấy nhiều đám rước linh đình như vậy… từng đoàn ngựa xe … từng dòng tùy tùng … và các cỗ kiệu hình thù khác nhau… Từ mỗi cỗ kiệu, một nàng công chúa hoa lệ bước ra, tiến về phía lâu đài vĩ đại. Chắc rằng có sự kiện gì đặc biệt ở đây, nàng tò mò hỏi một người nông dân. Người nông dân trả lời:

  • Hoàng tử của vương quốc là một chàng hoàng tử thật sự nên chàng muốn tìm một nàng công chúa hoàn hảo, nhưng đã nhiều năm rồi chàng không tìm được!

“Thật kỳ quặc, cũng có một người giống ta sao?” – Nàng thầm nghĩ và dừng lại quan sát vẻ thất vọng cũng như tức tối trên khuôn mặt của những nàng công chúa khác.

Và tối đó, một đêm mưa gió bão bùng, bộ trang phục của nàng ướt lướt thướt, mái tóc rối bù vì gió và nước. Làn da trắng hồng của nàng nay tái xanh lại vì lạnh. Nàng đến gần lính canh và cất tiếng bằng một giọng êm ái nhưng kiêu kỳ:

  • Ta là một nàng công chúa thật sự, ta muốn gặp hoàng tử của các người!

Người lính mở tròn mắt nhìn vào cô gái tiều tụy trước mặt không dám tin đó là một nàng công chúa, thế mà lạ thay anh ta vẫn cứ dẫn nàng vào như bị đôi mắt và giọng nói của nàng thôi miên.

Cả hoàng tộc lúc này đang ăn tối. Sự xuất hiện của nàng công chúa bí ẩn khiến họ xáo động vì trông nàng chẳng giống một nàng công chúa chút nào, ít ra là những nàng công chúa mà họ biết. Nhưng ở nàng toát ra một điều gì đó rất kỳ lạ, vừa bị thu hút nhưng lại vừa xa cách. Với sự hiểu biết của một hoàng tử thật sự, chàng đã cảm thấy rằng nàng chính là người con gái bấy lâu chàng tìm kiếm. Tuy nhiên, chàng vẫn thấy cần có một bài kiểm tra.

Đêm đó, hoàng hậu sắp xếp cho nàng công chúa một chiếc giường lớn với mười ba tấm đệm cao ngất. Nàng phải bắc thang mới có thể trèo lên giường để ngủ được. Điều bất thường là cả đêm đó, nàng thao thức, hết trở mình sang trái, lại quay mình sang phải. Chắc hẳn phải là có gì đó bất ổn!

Đọc đến đây, các độc giả đã thấy quen thuộc chưa? Phải, ai đã từng nghe kể về câu chuyện này đều biết rằng dưới mười ba tấm đệm ấy là một hạt đậu. Và khi biết rằng nàng công chúa có thể phát hiện ra hạt đậu dưới mười ba tấm đệm, cả hoàng tộc đều tấm tắc chịu rằng nàng đích thị là một nàng công chúa một trăm phần trăm.

Nhưng mỉa mai thay, nếu chỉ là như thế thì thật là vô nghĩa khi tôi lại tiếp tục kể câu chuyện này với các bạn! Ngay khi chàng hoàng tử quỳ xuống cầu hôn nàng, nàng đã rụt tay lại, ngẩng cao đầu và nói:

  • Đúng, ta là một nàng công chúa hoàn hảo… nhưng chàng không phải hoàng tử thật sự ta tìm… Ta không muốn nằm trên một cái giường có những hạt đậu…

Và nàng lại lên ngựa bỏ đi, tiếp tục hành trình tìm kiếm. Nàng đi qua rất nhiều vương quốc khác nhau, gặp không biết bao nhiêu hoàng tử. Sự thanh quý của nàng nhanh chóng chiếm được trái tim của họ. Họ ngưỡng mộ nàng xiết bao. Bất cứ khi nàng đến một quốc gia nào, họ cũng chuẩn bị cho nàng những cái giường tuyệt đẹp. Nhưng hết lần này đến lần khác, nàng đều cảm thấy có gì đó cộm cộm dưới những lớp đệm mềm mại. Cũng như lần trước, nàng không ngủ được.

Thất bại lần sau lại khiến nàng cảm thấy tồi tệ hơn những lần trước. Bây giờ thì giấc mơ về một chàng hoàng tử thật sự không còn ám ảnh nàng nữa mà nàng chỉ cần một chiếc giường ngủ thực sự. Nàng sẽ buông nhẹ tấm thân mảnh dẻ xuống chiếc giường bồng bềnh và trôi vào giấc ngủ bình an.

Lần này, nàng quyết đi thật xa, đến tận đảo quốc nơi tận cùng thế giới. Đảo quốc không phải quá giàu có và phồn vinh như những nơi nàng đã đi qua. Nhưng con người ở đây chất phác, hiền lành, sống hài hòa với muông thú. Những bông hoa rừng nở rộ ngay trong thành phố và suối chảy róc rách ngang qua các quán hàng. Người dân hướng dẫn nàng đến lâu đài của chàng hoàng tử trị vì nơi đây.

Thật là một lâu đài kỳ lạ! Nó nằm sâu trong rừng già thâm u. Cổng vào được kết bởi những cây trường xuân cổ thụ. Khắp lối vào được lát bằng cỏ non và những bông hoa dại đủ màu sắc. Tiếng chim hót lảnh lót thay cho những tràng kèn khô khan của đám lính gác. Chẳng có báu vật nào ở đây cả, chỉ có đôi ba pho tượng trắng, vài bức tranh mặt trời ngoài biển khơi và cơ man đủ loại nhạc cụ trên đời.

Bỗng, chim ngừng hót. Tiếng đàn du dương vảng vất đâu đó. Tiếng đàn thật khó để có thể diễn tả. Nó tựa như tiếng nước chảy trong khe đá sâu và chạm tới phần sâu lắng nhất trong tâm hồn nàng. Lần này thật sự nàng bị thôi miên, nàng đi theo tiếng đàn. Mọi hình ảnh trước mặt nàng như dần dần biến mất, nàng chỉ biết đi theo thứ âm nhạc kỳ diệu ấy.

Chàng hoàng tử ngừng đàn và tiến lại gần nàng, đôi mắt không rời. Chàng quỳ xuống, cúi đầu khẽ khàng đặt nhẹ một nụ hôn lên bàn tay mịn màng, thon nhỏ của nàng. Chàng ngước mắt nhìn nàng! Ôi chao một đôi mắt trong sang khiến nàng phải bối rối lảng tránh. Chàng cứ quỳ mãi thế và chiêm ngưỡng nàng bằng một ánh mắt trìu mến. Chỉ đến khi nàng thốt lên:

  • Tại sao chàng cứ quỳ mãi thế?

Chàng mỉm cười hiền từ:

  • Bởi nàng chưa cho ta đứng lên…

Nàng bật cười thích thú và khẽ nhún người cúi chào hoàng tử. Chàng đứng dậy, đích thân dẫn nàng đi thăm thú khắp nơi trên đảo quốc. Chưa bao giờ nàng có cảm giác kỳ lạ như vậy. Chàng hoàng tử không hề quan tâm tới việc nàng có phải là một nàng công chúa hoàn hảo hay không.

Có điều, bây giờ nàng đã quá mệt mỏi với chặng đường dài. Nàng chỉ cần một chiếc giường thực sự, một giấc ngủ thật sự. Hoàng tử biết điều ấy và chàng lặng lẽ dọn cho nàng một chiếc giường. Tự tay chàng chọn những tấm ga trắng muốt phủ lên lớp đệm mềm mại và nhẹ như tơ nhện. Chàng còn vuốt cho phẳng phiu không một nếp nhăn và dung trầm hương hơ nhẹ lên khắp gian phòng tạo một cảm giác thư thái. Chàng làm tất cả điều đó với sự hân hoan hiếm thấy trên khuôn mặt của những chàng hoàng tử khác. Thế rồi, chàng nhẹ nhàng dẫn nàng tới giường, khẽ đặt nụ hôn chúc ngủ ngon lên tay nàng và quay đi.

Chỉ còn nàng công chúa trong căn phòng. Nàng bối rối nhìn chiếc giường êm ấm rồi bước từng bước một lại gần, khe khẽ ngồi xuống. Nàng buông một tiếng thở dài. Phải, nàng đã quá mệt mỏi, nàng chỉ cần một giấc ngủ ngon lành. Buông người xuống đệm, nàng bắt đầu chợp mắt.

Đột nhiên, nàng lại thấy gì đó gợn gợn. Một hạt đậu… hai hạt đậu… ba hạt đậu… Không biết có phải hạt đậu hay là hạt gì nữa. Nàng chỉ thấy rất nhiều thứ cưng cứng ở dưới lưng nàng. Chưa bao giờ nàng thấy nhiều những thứ lổn nhổn trên giường như vậy. Và nàng cảm thấy tức giận. Tại sao một chàng hoàng tử trong sáng như thế lại có thể lừa nàng? Nàng vùng dậy, chạy thật nhanh ra khỏi căn phòng. Nàng chạy trong cơn hoảng loạn, quên cả lễ nghi phải chào hoàng tử, đến nỗi chàng đang đắm chìm vẽ một bức tranh cũng phải giật mình rơi bút.

Tuyệt vọng thật rồi! Đây đã là nơi tận cùng thế giới. Nàng tiếp tục không ngủ và lênh đênh trên tàu. Sóng đánh vào mạn tàu càng khiến nỗi buồn của nàng dâng lên. Kìa! Mặt trời! Những tia sáng ấm áp phủ nhẹ lên người nàng. Nàng nhắm mắt lại cảm nhận. Một hơi ấm lan tỏa khắp cơ thể của nàng, cái cảm giác của một giấc ngủ êm đềm.

Nàng giật mình tỉnh dậy. Mặt trời đang lặn xuống biển. Nàng thốt hãi nghĩ tới đêm đen lạnh giá, nghĩ tới sự mệt mỏi và nỗi ám ảnh về những hạt đậu. Không! Nàng không chịu được nữa. Nàng hiểu rằng chỉ có mặt trời mới là hoàn hảo và nàng không muốn để tuột mất mặt trời.

Vội vã, nàng lao xuống biển. Ánh mặt trời xuyên thấu qua những cơn song trập trùng, nhấp nhô để chạm tới nàng. Dưới đáy biển, nàng không còn cảm thấy hạt đậu nào cả. Chỉ một sự êm ái miên man… chỉ hơi ấm nhè nhẹ … chỉ tiếng sóng biển du dương… chỉ một giấc ngủ bình an tuyệt đối…

(12/2012)

Hà Thủy Nguyên

Trích tập truyện ngắn “Bên kia cánh cửa” – Xuất bản năm 2013 (NXB Lao Động, nhà sách Bách Việt)

Home 2017 Tháng Mười / page 2

Cổ nguyệt

Bừng tỉnh cơn mê sảng
Cổ Nguyệt vén rèm trăng
Quảng Hàn cung đổ nát
Thế sự cũng tan hoang…

Đục ngầu nhân thế tro tàn
Vỡ vụn khuôn vàng thước ngọc
Lầu vọng trăng lửa ngút ngàn

Gỗ đá ăn mòn nhân loại
Lũ bùn nhơ ô uế hoàng đài
Dùi đục khoét hàng hàng cổ tự
Dòi bọ đội mồ nhơ bẩn gác thi nhân.

Cổ Nguyệt ta tỉnh mộng ngàn năm
Lướt thướt rung vàng thế sự
Trăng vọng nước
Nước vọng thuyền câu
Thuyền câu vọng u sầu
U sầu vọng thi nhân, ai hồi đáp…

Phấn trăng
Bụi trăng
Mưa trăng
Quay cuồng nhân thế
Dậy sóng trăng
Nhấn chìm mộng tầm thường
Biển rượu men trăng
Nuốt trọn bầu điên loạn
Túy lúy đong đưa cổ khúc tình tang

Mê loạn đã tàn
Dư âm còn vọng
Cổ Nguyệt uốn éo vô thanh
Si lang nào có nhớ?

Kẻ canh lầu vọng nguyệt
Chờ đợi cơn điên trăng
Kẻ ôm trăng hư huyễn
Chông chênh bờ thực ảo
Kẻ tiếc hồ điệp mộng
Ôm mãi khối cô tình
Kẻ lao vào mê loạn
Trầm luân vạn tên trăng
Kẻ cơ đồ một cõi
Ngập hoa vàng rơi rơi
Kẻ gẩy sầu u uẩn
Mang mang gác thi nhân
Kẻ lênh đênh vô vọng
Chôn chặt khối tình chung

Mời ai trút cạn chén này
Hờ hờ cười tan váng mây
Ta say, người say, say gỗ đá rụng rời

Mời ai viết dòng cổ tự
Kẻ ca ngâm “ứ hự” chờ trông
Lửa hồng hoang rực cháy dòng sông
Hỏa thiêu gỗ đá về miền hư không

Mời ai họa bức nguyệt đồ
Phong ấn ngàn ngàn cổ mộ
Hồn ma thức dậy nhuốm màu trăng
Rung phong linh lãng đãng

Mời ai kiến trúc cung thạch ngọc
Lấp loáng bạch nguyệt khúc mưa xưa
Tỏa dòng thanh khí ôm thành thị
Nâng niu mộng phồn hoa

Mời ai gẩy điệu trăng trăng
Nối tơ trời vang vang
Gió mang mang
Bầu tri kỷ tru lên ngút ngàn hoang lĩnh

Mời ai nhập hai miền hư ảo
Cõi hữu hình va chạm chốn hư linh
In dấu kỳ lân vờn nguyệt
Cấu trúc vân đồ nặng thuyền câu

Mời ai vung bút vịnh đêm thâu
Uốn lượn đường trăng phác nét sầu
Thi hứng căng tràn thớ máu
Nhặt mưa gom gió rải cổ phong

Cổ Nguyệt buông lơi xiêm áo
Rượu trăng lấp loáng thịt da
Xanh xanh thời gian vỡ
Tóc nhung huyền mơn man chén rượu mời

Than ôi…
Tóc nhung huyền nay đã điểm màu thi hứng…

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Mười / page 2

Long Điểu truyện – Chương 9: Máu phượng hoàng

Điểu Kinh đã yên ổn trở lại với sự lên ngôi của tân Điểu vương Điểu Lãnh Phong. Những bí mật của Điểu Linh Hoàng được chôn sâu cùng với oan khuất của Điểu Minh Hoàng để giữ cho danh tiếng của Điểu tộc không bị tổn hại, và cũng là để những kẻ đời sau không biết đến bí thuật giả mạo thể năng lượng phượng hoàng. Tử Bằng được giao cho Ô thị nuôi dưỡng, ẩn thân dưới một danh phận khác, để tránh sự truy đuổi của những kẻ thù giấu mặt cũng như tách cậu khỏi ân oán triều đình. Cung điện cũng đang bắt đầu được xây dựng lại.

Như vậy đã tạm an lòng, Thiên Hoàng đã có thể đi tìm người con gái đang thất lạc của mình. Thiên Hoàng thở phào tung cánh, nhẹ nhõm bay về phía Tây, hướng thẳng đến phủ Trấn Tây. Hoàng Tế Thiên đã lên đường trước đó vài ngày để đảm bảo an toàn cho Thái Sơn.

Vừa bay, Thiên Hoàng vừa tự hỏi bản thân về quyết định ngu ngốc của chàng. Tại sao chàng có thể chấp nhận đem toàn bộ công lực của mình để cứu sống một đứa bé không quen, khong biết. Đó là còn chưa kể, trong quãng thời gian chàng an dưỡng chờ hồi phục, Long tộc có thể tấn công, Dã quốc có thể tấn công, nguy hại đủ đường. Trong bối cảnh ấy, ai có thể thay chàng gánh vác trách nhiệm bảo vệ Điểu tộc. Thỏa thuận mà Hoàng Tế Thiên đưa ra có thực sự thuyết phục được chàng không? Không cần! Xưa nay, Trấn Tây tướng quân Điểu Tùng vốn không ưa triều chính, nhưng luôn giữ phận canh gác phía Tây. Bởi vì chàng hiểu rằng Điểu Tùng coi trọng trách nhiệm của bản thân hơn lòng trung với Điểu tộc. Thế nên, có sự giúp sức của Điểu Tùng hay không vẫn vậy mà thôi. Điểu Thiên Phụng lần này nằm trong tay Điểu Tùng, đương nhiên là sẽ không gặp nguy hại đến tính mạng, nếu chàng cứ cương quyết không đồng ý thì Điểu Tùng cũng sẽ phải trả lại cô bé. Hoàng Tế Thiên cũng không thể bắt ép Điểu Tùng làm chuyện bất nghĩa được. Thế nhưng, Thiên Hoàng vẫn cứ thôi thúc bản thân phải cứu cậu bé ấy, từ khi biết rằng nó tồn tại trên đời. Có lẽ, phần nào Thiên Hoàng cảm thấy hối hận vì đã gián tiếp gây ra cái chết của Chúc Thịnh Lai chăng? Nhưng chàng cũng gián tiếp gây ra cái chết của Điểu Minh Hoàng, và chàng không có sự thôi thúc ấy như đối với Điểu Tử Bằng. Chàng không biết rõ tại sao, nhưng điều gì thôi thúc chàng mạnh hơn, với chàng, điều ấy quan trọng hơn.

Phủ Trấn Tây đã hiện ra trước mắt chàng trong khu rừng xanh mướt. Khi chàng đậu xuống trước cổng, Điểu Tùng và Hoàng Tế Thiên đã có mặt trước cổng để đợi. Điểu Tùng chắp tay, cúi người trước Điểu Thiên Hoàng, dù chàng chưa bao giờ làm như vậy trước đó:

– Ta xin tạ tội vì đã dùng cách thức không được đàng hoàng để ép tướng quân tới đây!

Thiên Hoàng “hừ” một tiếng rồi đi vào, không đáp lễ, chỉ thẳng thừng yêu cầu:

– Ta muốn gặp con gái ta!

Điểu Tùng và Hoàng Tế Thiên nhìn nhau! Tế Thiên nhún vai. Điểu Tùng cảm thấy áy náy trong lòng nên trong cư xử với Thiên Hoàng có chút gượng gạo. Tế Thiên là người chủ động đưa ra chủ kiến bắt cóc Thiên Phụng, nên chủ động hơn. Chàng nói với Thiên Hoàng không chút e dè:

– Tiểu quận chúa còn nhỏ, nhưng học thức và khí chất đều hơn người, quả nhiên là con gái của Chinh Nam tướng quân Điểu Thiên Hoàng. Từ lúc tới phủ, quận chúa chưa từng sợ hãi, thường xuyên vui đùa với Thái Sơn, Thần Cơ và Điểu Âu trong thư viện.

Thiên Hoàng nghe đến chuyện Thiên Phụng đọc sách, không khỏi ngạc nhiên:

– Con gái ta đọc sách ư?

Điểu Tùng lúc này mới cảm thấy dễ dàng hơn khi nói chuyện với Thiên Hoàng:

– Bọn trẻ thường thích chơi trong thư viện, ta cũng không chắc về việc chúng làm gì…

Điểu Tùng dẫn Thiên Hoàng và Tế Thiên đi về phía thư viện. Thư viện nằm trên một hòn đảo nhỏ, giữa khu hồ trong phủ. Trước cổng thư viện là một vườn những cây tùng vươn thẳng lên trời cao, xuyên giữa sương mù. Thư viện xây bằng đá, không quá lớn nhưng thâm nghiêm.

Nhìn qua tựa hồ như không có đường vào thư viện, bởi hồ bao quanh hòn đảo và không có một cây cầu nào. Điểu Tùng dẫn Thiên Hoàng và Tế Thiên bước lên trên một con đường trong suốt không thể thấy bằng mắt thường để ra đảo. Mặc dù chỉ cần nhún mình là Thiên Hoàng có thể bay tới thư viện, nhưng cảm giác bước trên một cây cầu trong suốt vẫn khiến chàng thấy đôi phần thú vị. Chàng có thể phần nào hiểu tại sao lũ trẻ thích vào thư viện. Không hẳn là vì chúng ham mê hiểu biết, mà vì chúng muốn được đi lại trên cây cầu trong suốt, như thể được cưỡi trên sóng nước vậy.

Thư viện mát lạnh hơi đá. Những tủ sách được khoét thẳng trên tường đá và sách nép mình thành hàng tựa nhau trong các kệ. Những cuốn sách này lúc nào cũng còn như mới, sạch sẽ không chút bụi vương. Chính giữa thư viện là một mô hình bằng đá mô phỏng toàn bộ địa thế của Điểu tộc. Ban ngày, ánh nắng chiếu vào thư viện chan hòa. Ban đêm, ánh sáng được tạo ra bởi những cây bạch lạp. Trong thư viện chỉ có một chiếc bàn đá và một cái trường kỷ cũng bằng đá. Còn lại, không có thêm bất cứ chỗ ngồi nào khác.

Khi ba người bước vào thư viện, Điểu Âu đang lấy sách xếp thành từng chồng dưới nền đất tạo thành một khu thành khác bên cạnh bản đồ Điểu tộc. Phụ giúp Điểu Âu có Thần Cơ lăng xăng chạy đi lấy sách. Dường như hai đứa bé rất thích thú với trò chơi này nên chúng cười khoái trí vô cùng, như thể trên đời không có gì là quan trọng. Thiên Phụng đang nằm dài trên trường kỷ lim dim ngủ. Chỉ có Thái Sơn là cầm quyển sách đọc, mà còn phải đọc to thành tiếng, dù đôi lúc phải đằng hắng vì khô cổ và muốn ho nhưng kìm lại.

Thấy mấy quyển sách quý của mình bị lấy ra làm đồ chơi xây nhà cho hai đứa trẻ, Điểu Tùng quát to:

– Nghịch quá đấy!

Điểu Âu và Thần Cơ giật mình, nhưng giật mình xong liền cười hì hì như không có chuyện gì xảy ra. Thần Cơ chạy lại, níu tay Điểu Tùng giật giật:

– Bọn cháu không làm hỏng quyển sách nào đâu… Bọn cháu chỉ xây thành thôi, mà xây thành thì không được hỏng, vì hỏng là thành đổ ngay… Bác yên tâm!

Điểu Âu nói chen vào:

– Cha cho con vào thành chơi thì con đã không phá thư viện của cha!

Thái Sơn thấy vậy, liền gấp sách lại, chạy ra chào ba người, nhưng cậu bé lùi lại khi nhìn thấy Điểu Thiên Hoàng. Thấy thái độ của Thái Sơn, Thần Cơ mới nhận ra rằng có người lạ. Thiên Phụng vẫn nằm dài trên trường kỷ, cau mày khó chịu:

– Ơ, sao không đọc tiếp đi… Làm ta tỉnh ngủ mất rồi!

Thiên Hoàng “e hèm” một tiếng, nói:

– Lúc mất tích, con cũng đang ngủ, giờ tìm được con, con cũng đang ngủ, là sao?

Nghe thấy giọng Thiên Hoàng, Thiên Phụng nhổm dậy. Cô bé chạy nhanh tới, nhào vào ôm chân Thiên Hoàng. Cô bé cắn yêu vào chân Thiên Hoàng, khiến chàng la oai oái. Những người quanh đó nhìn vậy đều buồn cười. Thái Sơn thì khác, cậu cảm thấy tủi thân. Cậu nhớ về những ngày hạnh phúc và đầm ấm trong rừng Bạch Tùng. Thái Sơn gượng gạo nói:

– Cháu xin phép được về phòng ạ!

Thiên Phụng nhăn mặt:

– Không được! Về phòng là ngươi lại đóng cửa ngồi khóc một mình! Không được về! Ở đây chơi với ta!

Thái Sơn lúng túng, nói thở ra hơi:

– Quận chúa vừa gặp cha rồi… không cần ta nữa…

Thái Sơn quay đi, bước thật nhanh. Thiên Phụng quát to:

– Ta nói không được đi là không được đi!

Thái Sơn lảo đảo, chân bước chậm lại, nặng nề. Thần Cơ liền chạy đến bên em trai, nắm tay em dắt đi:

– Để chị đưa em về phòng!

Thái Sơn gạt mạnh tay của Thần Cơ ra. Cậu ngã khuỵu xuống nền đá, mặt trắng bệch. Thần Cơ hốt hoảng. Tế Thiên liền chạy đến bế Thái Sơn lên. Điểu Tùng giải thích cho Thiên Hoàng:

– Thằng bé này khi gặp cảm xúc mạnh sẽ không chịu được mà ngất xỉu. Từ khi Thịnh Lai qua đời, Tử Quỳnh chạy lên phía Bắc, bệnh tình của nó ngày một nặng hơn. Ta thực không còn cách nào nữa!

Thiên Hoàng lại gần đặt tay lên trán của Thái Sơn. Chàng nhắm mắt lại để cảm nhận. Một chuỗi những hình ảnh chạy trong tâm trí của chàng. Đó là viễn ảnh không rõ từ quá khứ hay tương lai. Trong viễn ảnh ấy, một chàng trai khoác chiến bào ôm chặt một cô gái trôi nổi giữa không trung, ở dưới là thế giới đang sụp đổ với những tiếng nổ uỳnh oàng của cuộc đại chiến. Thiên Hoàng từ từ rút tay lại, mở mắt ra. Chàng ngoái nhìn Thiên Phụng, rồi nhìn Thái Sơn, miệng lẩm bẩm:

– Lẽ nào… có lẽ nào…

Hoàng Tế Thiên theo dõi hành vi của Thiên Hoàng, khẽ nhíu mày băn khoăn. Chàng cảm thấy ở Thiên Hoàng có một điều gì đó đặc biệt, không phải chỉ đơn thuần là mang trong mình dòng máu phượng hoàng. Thiên Hoàng trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi Tế Thiên:

– Ta sẽ chữa bệnh cho Thái Sơn, nếu các người làm cho ta một điều nữa!

Tế Thiên gật đầu:

– Xin tướng quân cứ nói!

– Sau này, bằng bất cứ giá nào, các ngươi và cả con cháu các ngươi đều phải bảo vệ tính mạng cho con gái ta, không được phép để nó có bất cứ thương tổn nào…

Điểu Âu càu nhàu:

– Chẳng có lý gì cả!

– Không phải chuyện của con! – Điểu Tùng quát – Đi chỗ khác chơi!

Điểu Âu chẳng thèm quan tâm, chạy thẳng ra khỏi thư viện. Thiên Phụng vẫn đứng im lắng nghe, không phản ứng gì. Điểu Tùng đến gần, cúi người trước Thiên Hoàng:

– Con ta, con của Hoàng Tế Thiên, và cả hai chị em họ Chúc sẽ dốc sức bảo vệ cho quận chúa! Thỏa thuận ấy sẽ được thực hiện nếu tính mạng Thái Sơn được cứu.

Thiên Hoàng thở dài, nhìn khuôn mặt thanh tú của Thái Sơn, nói:

– Thằng bé có thiên mệnh trở thành một chiến thần bất bại… Ta không cứu nó… ta có định mệnh phải mang lại sự sống cho nó. Máu của ta sẽ chảy trong người nó, đó là định mệnh. Nó sẽ thay ta gánh vác gánh nặng, đó là định mệnh. Thôi, hôm nay ta cũng mệt rồi… ta muốn ở bên con gái ta… Ngày mai ta sẽ chữa trị cho thằng bé.

Thiên Hoàng không còn quan tâm đến những người xung quanh nữa. Chàng đi về phía Thiên Phụng, bế thốc cô bé lên tay:

– Đi nào, ra ngoài kia, biến thành phượng hoàng cho ta xem con luyện tập đến đâu…

Thiên Phụng phụng phịu chừng không muốn. Cô bé vẫn ngoái lại nhìn Thái Sơn.

Thể năng lượng phượng hoàng của Thiên Phụng đã rất lớn dù tuổi còn nhỏ. Đó là một con phượng hoàng dát vàng long lánh như ánh trăng. Mỗi khi Thiên Phụng xòe cánh, những bụi vàng lả tả rơi xuống xung quanh khiến khung cảnh trở nên sáng sủa và trong lành hơn. Bụi vàng vương vào người khác có thể khiến họ bị mê hoặc trong ảo cảnh. Nhưng Thiên Phụng không thích thú với việc phô diễn thể năng lượng của mình. Cô bé chỉ biến thành phượng hoàng trong chốc lát rồi trở lại hình người.

Thiên Hoàng nghiêm giọng trách:

– Chẳng nghiêm túc luyện tập gì cả!

Thiên Phụng lại trèo lên ôm cổ Thiên Hoàng:

– Con chẳng thích làm phượng hoàng, phượng hoàng không có tay, không thể ôm cha được.

– Cha con ta có thể cứ ôm nhau thế này… – Thiên Hoàng gật gù – Và Điểu tộc sẽ bị thôn tính…

– Thì kiếp sau con lại đầu thai làm người Long tộc hoặc người Dã quốc, có sao đâu! Được ôm cha mới khó, vì chắc gì kiếp sau cha con ta đã gặp nhau. Thiên Hoàng nghe lời con trẻ, bàng hoàng nhận ra. Phải rồi, đời sống được ở bên người mình yêu quý có là bao. Thiên hạ nào có phải của ai, thế mà vẫn có người ngu ngốc như chàng lúc nào cũng phải lo nghĩ cho thiên hạ. Chàng từ nhỏ tới lớn, được nuôi dậy để lo cho vận mệnh của một thứ không thể nắm bắt, của những con người được định hình bằng sự hữu hạn mà chàng vốn chỉ coi như cây cỏ. Bất cứ ai trong Điểu tộc đều được nuôi dạy theo cách ấy. Người Điểu tộc có thể như những anh hùng không màng sống chết, cũng có thể hèn nhược suy thoái nhưng đều bám lấy cái thể năng lượng hình chim của mình, vào mảnh đất an toàn, vào những truyền thống của tổ tiên, vào nguồn tài nguyên giàu có, để nương tựa cả phần tinh thần và xác thịt. Bấy lâu nay, chàng chưa từng bao giờ tự hỏi mình xem tại sao chàng lại coi trọng thể năng lượng phượng hoàng đến thế, coi trọng sự bình yên của Điểu tộc đến thế…

Đó là đêm đầu tiên Thiên Hoàng ngủ ngon giấc kể từ khi chàng trưởng thành. Không còn những ảo giác, không còn những giấc mơ đẫm máu, không còn những nỗi đau được nén xuống trong lòng. Thiên Phụng nằm rúc vào nách Thiên Hoàng cựa quậy mà chàng vẫn say giấc nồng. Thiên Phụng nhổm dậy, đôi mắt mở tròn, không chút buồn ngủ. Có lẽ do ban ngày ngủ quá nhiều nên ban đêm Thiên Phụng khó ngủ.
Thiên Phụng len lén trèo khỏi giường, rón rén bước qua người Thiên Hoàng, nhẹ không một tiếng động. Cô bé men theo những dãy hành lang, dẫm chân trần trên nền đá. Hơi đêm thu khiến đôi chân nhỏ bé lạnh cóng, nhưng cô bé không quan tâm, vẫn bước thật nhanh. Mấy ngày ở phủ Trấn Tây, cô bé không nhớ hết đường đi, nhưng nhớ nhất là đường dẫn đến phòng ngủ của chị em họ Chúc.

Cô bé nhẹ nhàng đẩy cửa, lần mò trong bóng tối. Thiên Phụng xòe bàn tay. Bàn tay của cô bé sáng rực lên, soi rõ căn phòng. Cô bé đến gần giường của Thần Cơ và Thái Sơn. Hai chị em đang ôm nhau say ngủ. Thiên Phụng lay gọi Thái Sơn:

– Thái Sơn… dậy đi… Thái Sơn…

Thái Sơn he hé mắt. Thần Cơ làu nhàu vài tiếng rồi kéo chăn trùm mặt ngủ tiếp. Thái Sơn ngóc đầu dậy lầm bầm:

– Quận chúa chưa ngủ à?

Thiên Phụng kéo tay Thái Sơn:

– Dậy ngay, ta cần ngươi đưa ta đến thư viện…

Thái Sơn nhăn mặt:

– Ta buồn ngủ lắm…

Thiên Phụng kéo mạnh tay, nghiêm nét mặt, khiến Thái Sơn tỉnh ngủ. Cậu bé leo xuống giường. Thái Sơn quấn tấm chăn mỏng rồi dẫn Thiên Phụng đi về phía thư viện.

Thư viện đêm im ắng, không ánh sáng. Xung quanh hồ sương dày đặc, phủ kín cả phủ Trấn Tây. Hai đứa trẻ mở Sương bay vào tận phòng sách, hai đứa trẻ bước đi như bước trên mây. Thiên Phụng mặt tái đi vì lạnh. Thấy vậy, Thái Sơn đành phải nhường tấm chăn cho cô bé. Cậu vừa khoác chăn lên cho cô vừa chau mày:

– Quận chúa muốn ta làm gì?

Thiên Phụng chỉ lên thư viện:

– Ở đây rất nhiều sách! Ta không biết quyển nào là quyển ta cần!

– Sao không để buổi sáng?

Thiên Phụng nhún vai:

– Để buổi sáng thì muộn mất! Ta cần tìm một cuốn sách viết về máu phượng hoàng…

Thái Sơn ngạc nhiên:

– Quận chúa không biết sao?

– Ai quan tâm chứ! – Thiên Phụng nhăn nhó – Thể năng lượng phượng hoàng là phiền nhất đấy! Ta không thèm đâu! Nhưng giờ ta đang cần biết về nó!

Thái Sơn lắc đầu:

– Quận chúa lười biếng quá! Cái đó ta đã đọc rồi, không cần tìm sách nữa. Máu phượng hoàng có thể cải tử hoàn sinh. Bệnh nặng đến mấy, độc trúng nặng đến mấy cũng chỉ cần máu phượng hoàng là có thể trị khỏi. Nhưng nếu bị mất máu phượng hoàng nhiều thì sinh lực sẽ suy kiệt, nhẹ thì mất nhiều năm suy nhược, nặng thì sẽ mất mạng.

Thiên Phụng đột ngột vung tay đấm mạnh vào bụng Thái Sơn. Thái Sơn không đề phòng, ngã lăn xuống sàn nhà. Thiên Phụng nhanh chóng trèo lên người Thái Sơn, ghì cậu bé xuống sàn đá lạnh.

– Cha ta vì cứu ta mà bị ép phải dùng máu của mình để cứu ngươi! Ta không thể để như thế được!

– Quận chúa… ta không cần máu phượng hoàng… việc này ta không biết…

Thiên Phụng dùng móng tay đang rực sáng bởi năng lượng phượng hoàng, cứa đứt mạch máu của mình. Một dòng máu chảy ra. Thiên Phụng dí sát vết thương vào miệng Thái Sơn. Thái Sơn cố đẩy ra nhưng sức lực không đủ. Thiên Phụng nói:

– Ta không thể để cha ta vì ngươi mà chịu nguy hiểm… Máu của ta là đủ rồi!

Những giọt máu của Thiên Phụng mằn mặt nhưng ngọt và không tanh nồng. Thái Sơn lúc đầu còn cưỡng lại, nhưng sau đó bị mê hoặc bởi vị máu. Dòng máu đi vào cuống họng, xuống đến khoang bụng thì rực lên một luồng khí nhẹ nhàng, lan ra khắp cơ thể, sảng khoái vô cùng. Thái Sơn thấy thần thức của mình bay bổng, rơi vào một thế giới hư không, ở dưới là những lâu đài cung điện sụp đổ, thân thể của rất nhiều người trôi dạt trên bầu trời. Một cô gái da trắng như ánh trăng đêm thu, mái tóc dài buông xõa, trôi đến bên cạnh thần thức của Thái Sơn. Thần thức của Thái Sơn ghé sát khuôn mặt của cô gái, một dòng cảm xúc thương tâm trào lên.

Thái Sơn bừng tỉnh, thần thức quay trở lại với thư viện. Tóc của Thiên Phụng rủ xuống mặt cậu lòa xòa. Cậu chỉ mờ mờ nhìn thấy ánh trắng sáng từ khuôn mặt thanh tú của cô bé. Thái Sơn đã có lại một chút sức lực, đầu óc cũng trở nên tỉnh táo hơn. Cậu bé liền vùng dậy, đẩy mạnh Thiên Phụng. Thiên Phụng ngã bệt xuống nền đá.

– Không được!

Thái Sơn xé miếng vải áo, buộc lại vết thương cho Thiên Phụng:

– Ta không thích uống máu!

Thiên Phụng níu tay Thái Sơn:

– Ta không muốn ngươi chết!

Thái Sơn đỡ Thiên Phụng đứng dậy, nhưng Thiên Phụng lảo đảo, ngã khụy trong tay cậu bé. Bỗng nhiên, cô bé được nhấc bổng lên. Đó chính là Điểu Thiên Hoàng. Chàng bế con gái trên tay, thở dài:

– Thật là dại dột…

Thái Sơn lúng túng quệt máu trên miệng, cúi đầu:

– Cháu không tự chủ được, nên đã lỡ…

Thiên Hoàng mỉm cười, xoa đầu cậu bé:

– Không sao… miễn rằng sau này cháu nhớ ân tình này…

– Cháu không cần sống! – Thái Sơn lớn tiếng – Cháu không cần máu phượng hoàng! Tướng quân đưa quận chúa về đi!

Thiên Hoàng bật cười:

– Đêm khuya rồi, cháu về ngủ đi! Ta sẽ đưa con bé về phòng. Ngày mai chúng ta sẽ gặp nhau!

Trong nháy mắt, Thiên Hoàng đã bế Thiên Phụng đi khỏi. Chỉ còn Thái Sơn đứng lặng người trong màn sương. Cảm giác bi thương trong lúc mê man lại trỗi dậy khiến tim cậu thổn thức đập. Nước mắt tự nhiên dâng tràn. Nỗi đau này còn lớn hơn cái ngày chứng kiến cha cậu bị giết. Nỗi đau ấy day dứt, dai dẳng, không rõ nguyên cớ. Dòng máu của Thiên Phụng giúp cậu khỏe hơn, nhưng lại khiến cậu đau thương nhiều hơn, một nỗi đau như đến tự ngàn xưa.

Hà Thủy Nguyên 

Đọc các chương của Long Điểu truyện tại đâyhttps://hathuynguyen.com/tag/long-dieu-truyen/

Home 2017 Tháng Mười / page 2

MƯA TRĂNG

Trăng trắng mưa

Trăng rơi

Trăng rơi

Tàn mùa

 

Trăng trắng đêm

Trăng ảo hóa

Mùa lên dây

Gẩy điệu tàn thu

 

Điệu rơi

Điệu rơi

Thơ ngưng ý đọng

Đàn gọi mưa trăng

Ta gọi Đời

 

Đời thấm trăng trắng mưa

Ta đàn Đời lên thơ

Ta rơi Đời nghe thu

Đời ảo ta một kiếp

Ta ảo Đời trăng ơi

 

Mưa trăng rơi

Mưa trăng trắng Đời, thơ ơi

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Mười / page 2

Nghệ thuật vô dụng

Nghệ sĩ là người sáng tạo nên những tạo vật đẹp đẽ. Để biểu lộ nghệ thuật và che giấu nghệ sĩ chính là mục đích của nghệ thuật. Nhà phê bình là người có thể diễn dịch ấn tượng của anh ta về cái đẹp  sang một cách khác hoặc một hình thái mới.

Dù là hình thái cao nhất hay thấp nhất của phê bình đều là thủ pháp tự truyện. Những người nhận ra những ý nghĩa tồi tệ trong những điều đẹp đẽ đều đồi bại vô duyên. Đây là một sai lầm.

Những người nhận ra những ý nghĩa đẹp đẽ bên trong những điều đẹp đẽ đều được tôi rèn. Với những người này có hi vọng. Họ là những người ủng hộ cái đẹp thuần túy chỉ vì cái đẹp.

Không có một cuốn sách có đạo đức hay vô đạo đức. Sách được viết hay hoặc dở. Thế thôi.

Thế kỷ 19 không thích chủ nghĩa hiện thực là cơn giận dữ của Caliban khi nhìn thấy bản mặt của mình trong gương.

Thế kỷ 19 không thích chủ nghĩa lãng mạn là cơn giận dữ của Caliban khi không nhìn  thấy khuôn mặt của mình trong gương. Cuộc sống đạo đức của con người tạo ra chủ đề cho nghệ sĩ, nhưng đạo đức trong nghệ thuật bao hàm việc tạo ra sự hoàn hảo cho tình trạng không hoàn hảo. Không nghệ sĩ nào có tham vọng chứng minh bất cứ điều gì. Thậm chí những điều đó thật sự có thể chứng minh. Không nghệ sĩ nào có lòng trắc ẩn mang tính đạo đức. Một sự trắc ẩn mang tính đạo đức trong nghệ thuật là một trò cầu kỳ của thứ phong cách không thể chấp nhận được. Không nghệ sĩ nào bệnh hoạn. Nghệ sĩ có thể biểu hiện mọi thứ. Tư tưởng và ngôn ngữ là những công cụ của nghệ sĩ cho tác phẩm. Thói xấu và đức hạnh là vật liệu của nghệ sĩ cho tác phẩm. Từ góc nhìn về hình thức, khuôn mẫu nghệ thuật đều là nghệ thuật của nhạc sĩ. Từ góc nhìn về cảm giác, sự khéo léo của diễn viên chính là một khuô mẫu. Tất cả nghệ thuật đều mang tính bề mặt và biểu tượng. Những người đi bên dưới bề mặt đều ở trong tình trạng nguy hiểm. Đó là khan giả, và không phải cuộc sống, mà trong đó nghệ thuật thực sự phản chiếu. Sự đa dạng của các quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm này mới, phức tạp và quan trọng. Khi các nhà phê bình không đồng ý, người nghệ sĩ phải thỏa hiệp với anh ta. Chúng ta có thể tha thứ cho người tạo ra những thứ hữu dụng miễn là anh ta không khát khao điều ấy. Chỉ đáng tiếc cho việc tạo tác ra một điều gì đó vô dụng mà ai đó vẫn khao khát mãnh liệt.

Tất cả nghệ thuật đều vô dụng.

Trích từ tiểu thuyết “The picture of Dorian Gray” – Oscar Wilde

Người dịch: Hà Thủy Nguyên

Home 2017 Tháng Mười / page 2

Buồn, tạt ngang thế giới

Buồn, tạt ngang thế giới

Mảnh vụn hồn,

Bầy người rắc trên sông

Lập lòe hi vọng trôi tắt lịm

Nguyện cầu chi

Huyên náo tham lam

 

Buồn, tạt ngang thế giới

Ai ru con cũng như ai ru con

Bé thơ 1, bé thơ 2, bé thơ nào đó

Lăn tương lai

Rơi hố thẳm mồ sâu

Chỉ để lại lời ru

Cho đứa trẻ mai sau

 

Buồn, tạt ngang thế giới

Nỗi đau ép kiệt : Tinh chất lý tưởng – Bã đám đông

Nổi dậy đi cho tương lai tận thế

Nổi dậy đi cho hồn loãng thành sông

Này người nổi dậy, anh có biết

Cách mạng nào cũng để lại nỗi đau

 

Buồn, tạt ngang thế giới

Thư viện đêm thì thầm tiếng cao xa

Kìa ý tưởng

Kìa phận người

Tâm sự triền miên

Ngàn ngàn năm chưa chán

Này các ngươi, có ai buồn cùng ta

 

Thôi thì buồn, ta về với ta

Để thế giới vui đùa cùng thế giới

Thân đã mệt, và lòng thôi đã mỏi

Này ta ơi

Về đối thoại cùng ta…

Và ngọn bút đã sa…

 

Hà Thủy Nguyên