Home 2019 / page 8

HÃY ĐẾN TRÀN CUNG MÂY – OMAR KHAYYAM

(Chán quá, lôi thơ Omar Khayyam ra dịch)

Hãy đến, tràn cung mây, nơi ngọn lửa xuân tươi
Tấm áo choàng đông vương hận tuột rồi
Hỡi chim thời gian nào tung cánh
Và chim đà bay bổng trên trời

Bản tiếng Anh của Edward FitzGerald:

Come, fill the cup, and in the fire of spring
Your winter garment of repentance fling.
The bird of time has but a little way
To flutter – and the bird is on the wing.

Hà Thủy Nguyên dịch

Home 2019 / page 8

Bạn có nghe…

Bạn có nghe thế giới chuyển mình
Để lộn về mông muội
Trong cơn điên huyễn tưởng

Bạn có nghe tiếng triệu hồi tuyệt vọng
Một con quỷ đang gào
Để diệt trừ con quỷ khác
Rồi mong đợi thiên đàng

Bạn có nghe tiếng thiên thần rũ cánh
Nơi nóc cao đợi chết
Mặc lũ người mông muội
Rạp mình hôn chân quỷ dữ
Xin phúc phận dư thừa

Bạn có nghe phận người tuyệt vọng
Chút cần sa mê sảng tinh thần
Hềnh hệch cười cho quên trái đắng
Giống trái cấm chốn địa đàng đã đổ

Bạn có nghe tiếng con người cô độc
Dẫm lên máu thiên thần nào có hiểu gì đâu
Này là bánh mì và vũ khí
Này là vứt bỏ linh hồn cho chút ít bình an
Và lại say trong cần sa phúc lạc

Tôi, tên phù thủy già đi qua nhiều địa ngục
Chẳng màng thuật triệu hồi
Chỉ đợi cái chết thôi
Tiếng đời câm nín cả

 

Hà Thủy Nguyên

Video đọc thơ:

Home 2019 / page 8

Tôi đã đi qua giấc mơ

Tôi rã rời giông gió tàn chưa?
Ly rượu hơi đã bay xa
Chỉ đắng mùi dâu bể
Những người xưa hứng giọt mưa này
Thấy long lanh ký ức
Khoảnh khắc mờ hơi hóa hư không

Quanh tôi
Nói nói
Cười cười
Khóc khóc
Chơi vơi
Tôi chỉ thoáng trôi qua đời
Hay đời đã trôi qua tôi
Một trái tim khép cửa

Một vầng trăng lệ huyết ngân
Cũng chìm trong khuất bóng
Một vầng dương huy hoàng
Cũng một mình tỏa rạng
Tôi đắm khắc này cơn say bất tuyệt
Ly rượu vãi vung đổ tràn
Ai ơi chẳng rượu mà say
Một khắc nhỏ nhoi tàn ngày
Tàn những vì sao mệnh số
Ai ơi êm êm mùa đơn độc
Thời thời thế thế thịnh thịnh suy suy
Kìa ly rượu cũng bay mùi cay đắng

Đêm qua một giấc mơ đi qua tôi
Vết chân hằn rõ bùn đau khổ
Hay tôi đi qua giấc mơ ai đó
Và lạc hồn giữa khổ đau
Những bám chấp ngục tù
Những cuộc đời không dừng bước
Và trăng sao cứ đổi dời trật tự
Mà tôi say điệu này mờ ảo trăng sao

Quanh tôi
Chỉ bóng hình không tiếng động
Những chuyển động đa màu
Cũng nhạt nhòa như nhau
Tôi đã quên ly rượu đời mình đâu đó
Mặc ai uống cạn
Cạn rồi thì sao

Tôi im hơi cô tịch
Tựa hồ khắc thời trôi
Vị giấc mơ còn đọng đầu môi
Cũng phai mờ theo gió
Mà trăng sao
Ti tỉ khối hình đơn độc
Bám víu nhau chẳng nguôi được cô đơn
Tôi nực cười nhếch môi lặng lẽ
Cuộc đời ai hiểu cười đâu!

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 8

Lời mưa – Walt Whitman

 

Mi là ai? tôi thốt lên dưới làn mưa mềm mại
Mà, lạ lùng sao, trả lời dùm tôi, như chuyển ngữ:
Tôi là Bài thơ của Đất, lời mưa cất tiếng,
Tôi bất diệt êm ái vùng lên từ đất và biển sâu không đáy
Hướng tới thiên đường, khởi nguyên, hư ảnh, dù đổi thay, đều thế cả
Tôi hạ phàm gột rửa những cơn gió nam khô hạn, những hạt nguyên tử, những phong trần thế gian,
Và thăm thẳm bên trong nơi chưa từng có tôi đều là những hạt giống, tiềm ẩn, chưa chào đời
Và mãi mãi, ngày lại đêm, tôi mang lại sự sống nơi cội nguồn chính tôi, thanh tẩy và tô điểm;
(Cho khúc ca, nảy lên nơi tôi khởi sinh, và thành toàn cuộc viễn du
Băn khoăn hay không băn khoăn, đều đáng khi tình yêu trở lại.)

Nguyên tác:
THE VOICE OF RAIN

And who art thou? said I to the soft-falling shower,
Which, strange to tell, gave me an answer, as here translated:
I am the Poem of Earth, said the voice of the rain,
Eternal I rise impalpable out of the land and the bottomless sea,
Upward to heaven, whence, vaguely form’d, altogether changed, and yet the same,
I descend to lave the drouths, atomies, dust-layers of the globe,
And all that in them without me were seeds only, latent, unborn;
And forever, by day and night, I give back life to my own origin, and make pure and beautify it;
(For song, issuing from its birth-place, after fulfilment, wandering,
Reck’d or unreck’d, duly with love returns.)

Trích tập thơ Leaves of Grass của Walt Whitman

Hà Thủy Nguyên dịch

Home 2019 / page 8

Qua sông Bạch Đằng

Trắng sóng xương anh hùng rục
Chẳng qua một kiếp phù sinh
Nào sân hận
Nào vì nước vì dân
Mờ mờ ảnh ảo mịt mùng
Ai ơi hiến tế ngàn ngàn sinh mạng
Cho tranh đoạt của kẻ điên

Lửa nguội tắt sóng bạc đầu
Ta vẫn còn xanh mái tóc
Nực cười thay…
Nào những kẻ tụng ca máu đổ
Nào những kẻ tham luyến cơ đồ
Ta thay hồn oan
Dẫm lên cọc nhọn
Máu ứa hồng tẩy rửa bi thương

Chớp mắt nhìn xuyên thế kỷ
Chẳng qua một điệu bi ai
Kẻ thành người bại
Chẳng qua oán hờn
Rồi sao?

Gió nhuốm màu bạc trắng
Sông lồng lộng
Khí thiêng nào hun đúc
Khí thiêng quần nát đời người đỏ máu
Ai nghe tiếng đau
Nơi gót chân ta dẫm lên cọc nhọn
Cứu chuộc cơn điên thế kỷ
Những thể kỷ tàn sát thỏa vui
Thỏa một cơn say kẻ điên đêm trăng máu
Cắn cổ người hút cạn chút bình an

Hỡi khí thiêng
Có nghe buồn tràn
Nơi gót chân ta ứa máu

Hà Thủy Nguyên

 

Home 2019 / page 8

Thị trường sách Việt Nam (7): Khi văn hóa đọc thiếu nền tảng học thuật và pháp luật

Có lẽ chưa bao giờ văn hóa đọc lại nở rộ như ngày nay, đặc biệt là sự hỗ trợ từ chính quyền và các kênh báo đài chính thống. Không khí tấp nập nhộn nhịp trong các hội trợ sách, các hội thảo sách, các cuộc chạy đường trường cổ vũ phong trào đọc dường như làm sống dậy cái không khí Đông Kinh nghĩa thục: “Buổi diễn thuyết người đông như hội/Kỳ bình văn khách đến như mưa”. Chứng kiến cảnh “trăm hoa đua nở” của các đơn vị xuất bản, các cộng đồng đọc sách, các cá nhân cổ vũ đọc sách…v…v… chúng ta dễ lầm tưởng rằng một tương lai tươi sáng cho công cuộc nâng cao dân trí đang diễn ra. Tuy nhiên, nếu nhìn cận cảnh văn hóa đọc ở Việt Nam sẽ thấy một nguy cơ của tình trạng nhiễm độc “tinh thần” đang là vấn đề nan giải.

Một điểm dễ thấy ở thị trường sách Việt Nam đó là sự vượt trội về doanh số của các đầu sách dạy làm giàu, dạy kỹ năng sống, tiểu thuyết tình yêu…v…v… so với các đầu sách khác. Những cuốn sách này thường khá dễ đọc, giải quyết các nhu cầu trước mắt của người đọc, và thường được những độc giả thiếu nền tảng kiến thức ưa thích. Ở phương Tây hay Trung Quốc, những cuốn sách dạng này cũng được số đông độc giả ưa thích nhưng chúng không có vị trí thống soái như ở Việt Nam. Dù cho chúng có thể là “best seller” nhưng người dân vẫn ý thức được rằng vẫn có những cuốn sách tầm cỡ cao hơn thế, có tính học thuật hơn và sách hàn lâm vẫn giữ một vị trí thống soái dù số lượng bán ra không bằng. Nhưng ở Việt Nam, sách hàn lâm cứ như thể là một thế giới vô cùng biệt lập đối với độc giả đại chúng.

Đặc biệt là các sách dạy làm giàu, dạy kỹ năng sống luôn xuất hiện ở các giá sách của các quán café sách như một phần của phong trào nâng cao văn hóa đọc. Đây cũng là các cuốn sách ưa thích trong các chương trình đào tạo nhân viên của các tập đoàn, các công ty bán hàng đa cấp…v…v… Đến nay, sự đúng – sai của các cuốn sách này vẫn gây nhiều tranh cãi trên thế giới và ở Việt Nam, tuy nhiên, nếu đưa số sách này vào làm một phần chiến lược của phong trào nâng cao dân trí thì chẳng khác nào vứt vào tay người dân những “cái cần” chẳng biết có “câu được cá” hay không? Và nếu các cuốn sách này không thực sự giúp được người dân cải thiện cuộc sống mà chỉ được sử dụng để khích lệ ham muốn kiếm lợi thì đó không phải là nâng cao dân trí mà là làm giảm đi khả năng làm việc có chuyên môn để thay bằng các phương pháp làm giàu nhanh chóng.  Trong khi ấy, các cuốn sách có tính chuyên môn sâu hay tính hàn lâm vẫn thiếu vắng trên thị trường sách và được in với số lượng rất ít.

Tiểu thuyết tình yêu hay còn có tên gọi mới là tiểu thuyết ngôn tình không chỉ xuất hiên nhan nhản ở các nhà sách, các trang bán sách online mà còn cả ở Thư viện Quốc gia, nơi vốn dĩ là tập hợp của những cuốn sách có tính hàn lâm hoặc hữu dụng. Nếu ai đã từng một lần tới phòng đọc của Thư viện Quốc gia Hà Nội hẳn sẽ ngạc nhiên khi thấy tiểu thuyết ngôn tình chiếm một vị trí lớn trong thư viện: không chỉ có ngôn tình Trung Quốc mà còn có đủ cả ngôn tình Anh, Pháp và Việt Nam. Trong khi ấy, thư viện lại thiếu vắng các tác phẩm văn học kinh điển của thế giới mà các dịch giả từ đầu thế kỷ 20 đến nay vẫn tiếp tục dầy công chuyển ngữ. Thậm chí, nhiều tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam cũng không thể tìm thấy tại Thư viện Quốc gia Hà Nội. Những bạn trẻ đến thư viện có thể thoải mái ngồi đọc tiểu thuyết ngôn tình bên cạnh những nhà nghiên cứu đọc các cuốn sách dầy cộp. Đây có lẽ là một cảnh khá hi hữu tại một Thư viện công có tầm cỡ quốc gia với nền tảng lưu trữ học thuật hơn 100 năm. Cùng lúc ấy, các tác giả trẻ viết tiểu thuyết tình yêu mang tính thị trường và các tác giả sáng tác văn chương mang tính nghệ thuật cũng rất khó để phân định được ranh giới dẫn đến một tình trạng loạn chuẩn trong nền văn học, và người đọc có thể hoàn toàn sẽ bị dẫn hướng bởi truyền thông. Ví dụ như các độc giả trẻ sẽ không thể phân biệt được sự chênh lệch về chất lượng giữa một cuốn tiểu thuyết ngôn tình sử dụng yếu tố lịch sử (như trường hợp “Thành kỳ ý” của Lê Ngọc Linh hay “Đại Nam dị truyện” của Phan Cuồng) với một cuốn tiểu thuyết lịch sử công phu (như “Hồ Qúy Ly” của Nguyễn Xuân Khánh hay “Vạn xuân” của Yveline Féray).

Tình trạng “vàng” không được coi trọng bằng “thau” này đã khiến cho nền văn hóa đọc của Việt Nam ở thời sung sức của giai đoạn đầu nhiễm những tạp chất khó có thể tẩy rửa khỏi thói quen đọc sách của thế hệ trẻ. Đây là hệ quả của sự thiếu nền tảng học thuật và pháp lý trong chiến lược của phong trào nâng cao văn hóa đọc. Trong “ĐỀ ÁN Phát triển Văn hóa Đọc trong cộng đồng Giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030” của Thủ tướng chính phủ được thảo ra từ năm 2010, việc xây dựng nền tảng học thuật và pháp lý làm chỗ dựa cho xuất bản gần như không được đề cập đến mà hầu như chỉ nhấn mạnh vào công tác tuyên truyền nhằm gia tăng lượng độc giả. Trên thực tế, nếu không thể xuất bản ra những cuốn sách có chất lượng cao, đảm bảo tính chính xác của kiến thức, đạt các chuẩn của tiếng Việt và không có các sai phạm về bản quyền thì nền văn hóa đọc ấy sẽ chỉ gây hại cho độc giả mà thôi. Vấn đề chính yếu của văn hóa đọc hiện nay không phải là tình trạng giảm sút của số lượng độc giả mà tình trạng lỏng lẻo trong quản lý chất lượng sách.

Ngăn ngừa đạo văn có lẽ là vấn đề pháp lý quan trọng nhất của một nền văn hóa đọc. Tuy nhiên, cho đến nay, khung pháp lý xử lý đạo văn vẫn còn lỏng lẻo, không có cơ quan giải quyết các khúc mắc về đạo văn một cách chuyên nghiệp, cũng không có mức phạt nghiêm khắc thực sự để ngăn ngừa đạo văn. Hầu như trong các vụ đạo văn bị phanh phui trên truyền thông, những tác phẩm đạo văn không hề bị thu hồi và tác giả cũng không phải chịu một mức phạt nào, thậm chí nhiều trường hợp còn không xin lỗi một cách công khai. Qúy cuối năm 2015 cho đến quý I năm 2016, độc giả được chứng kiến hai vụ đạo văn đình đám: Một là sự việc nhà thơ Phan Huyền Thư đạo thơ của Phan Ngọc Thường Đoan. Hai là sự việc Lê Ngọc Linh trong tiểu thuyết ngôn tình có yếu tố lịch sử “Thành Kỳ Ý” đã đạo rất nhiều đoạn văn từ cuốn sách “Tứ thư bình giải” cùng nhiều bài báo từ các trang online của báo Dân Trí, Vietnamtourism…v…v… Cả hai trường hợp đạo văn này, sách đều không bị tịch thu và không bị nhận mức phạt nặng, cùng lắm chỉ là bị ép xin lỗi hoặc như nhà thơ Phan Huyền Thư chỉ cần trả lại giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội là đủ. Như trường hợp “Thành Kỳ Ý”, mức độ sai phạm trầm trọng hơn khi tác giả của cuốn sách này kêu gọi độc giả ủng hộ cô ta số tiền lên đến hơn 200 triệu đồng trước khi cô ta ra mắt sách. Số tiền này không hề được hoàn trả cho người ủng hộ khi cuốn sách được chứng minh là đạo văn, và cũng không có khoản phạt tài chính nào với sai phạm này. Cho đến nay, Lê Ngọc Linh vẫn không hề bị xử phạt dù cho đã có hơn 1000 chữ ký từ các độc giả vận động trên mạng và gửi thư khiếu nại đến Cục xuất bản. Hai ví dụ trên thật sự đã cho ta thấy sự quản lý lỏng lẻo của các đơn vị quản lý văn hóa. Đây chỉ là hai vụ scandal nổi tiếng trong số rất nhiều những sự vụ khác ít đình đám hơn và rất nhiều những vụ chưa được phanh phui vì chưa có ai phát hiện. Sẽ ra sao nếu Việt Nam có một nền văn hóa đọc mà ai ai cũng có thể đạo văn mà không phải chịu trách nhiệm gì? Đó là một nền văn hóa đọc không bảo vệ sự sáng tạo mà chỉ dung túng cho thói quen viết lách thiếu trách nhiệm và trình độ.

Không chỉ là một nền văn hóa đọc thiếu sự khuyến khích sáng tạo mà nền văn hóa đọc Việt Nam còn thiếu sự chính xác và tinh thần khoa học. Tình trạng nội dung sách không đảm bảo chất lượng ngôn ngữ hay khoa học là khá phổ biến. Gần như năm nào người đọc cũng được chứng kiến các sự việc sách dịch không chính xác ( như “Lolita” do Dương Tường dịch, “Sapiens, lược sử về loài người” do Nguyễn Thủy Chung và Võ Minh Tuấn dịch, “Căn tính và bạo lực – Huyễn tưởng về số mệnh” do Trần Tiễn Cao Đăng và Lê Tuấn Huy dịch…). Những cuốn sách này hoặc là thiếu chính xác trong chuyển ngữ, hoặc là diễn giải không đúng với văn phạm tiếng Việt. Bên cạnh đó còn phải kể đến không ít các cuốn sách nghiên cứu, khảo cứu, hướng dẫn… thiếu tính chính xác trong việc sử dụng kiến thức. Tôi sẽ không đề cập đến ví dụ về tình trạng sách nghiên cứu, khảo cứu sử dụng sai kiến thức bởi vì sẽ rất dài dòng để giải thích. Thay vào đó, tôi sẽ sử dụng một cuốn giáo trình tiếng Anh làm ví dụ. Đây là cuốn giáo trình tiếng Anh do trung tâm Elight phát hành, cấp phép bởi NXB Thanh Niên, có tên “Tiếng Anh cơ bản”. Một giáo viên dậy tiếng Anh rất nổi tiếng người Mỹ có tên là Dan Hauer đã chỉ ra rất nhiều lỗi sai ngữ pháp và từ vựng nghiêm trọng ở cuốn giáo trình này cùng với hơn 300 chi tiết đạo văn từ các giáo trình tiếng Anh khác. Cuốn sách được bán với giá 299 ngàn, một mức giá khá cao. Video nhanh chóng được lan truyền trên mạng với hơn 660 ngàn lượt xem và đến nay cũng chưa có dấu hiệu của đơn vị quản lý văn hóa và giáo dục xử lý các lỗi sai về kiến thức cũng như đạo văn trong cuốn sách này. Việc cung cấp sai kiến thức là một lỗi nghiêm trọng không kém gì đạo văn bởi những cuốn sách ấy phát tán các nhận thức sai lệch cho độc giả. Một nền văn hóa đọc mà trong đó độc giả dễ dàng bị nhồi nhét những nhận thức sai lệch thì đó là một nền văn hóa không lành mạnh. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do thiếu một đội ngũ có trình độ học thuật cao tham gia các khâu thẩm định chất lượng nội dung và một nền xuất bản thiếu các tiêu chuẩn khoa học.

Mặc dù vậy, ở góc khuất của nền văn hóa đọc nhốn nháo ngày nay vẫn có những cộng đồng đọc sách nghiêm túc những mong tuyển chọn các cuốn sách hay giới thiệu cho bạn đọc, vẫn có những tác giả và dịch giả miệt mài ngày đêm âm thầm cống hiến cho tri thức, vẫn có những độc giả khôn ngoan biết tìm đến các nguồn sách có chất lượng cao. Tất cả những yếu tố này tạo nên một ốc đảo tri thức nằm giữa biển sách ngổn ngang của thị trường. Tuy rằng biệt lập nhưng họ vẫn luôn cố gắng để duy trì ngọn lửa tri thức. Và dù cho xã hội không có một khung pháp lý hay một khung học thuật để quản lý chất lượng sách trên thị trường thị họ cũng tự xác lập cho mình những chuẩn mực riêng trong ốc đảo tri thức ấy.

Hà Thủy Nguyên

Bài đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An số ra ngày 10 tháng 4 năm 2018

Home 2019 / page 8

Thị trường sách Việt Nam (6): Cộng đồng đọc sách và quyền lực của độc giả

Trong suốt dòng lịch sử của sách, các độc giả luôn đóng vai trò như “người tiêu dùng” cho các sản phẩm và tác phẩm của các tác giả, dịch giả. Họ bị định hướng bởi các nhà phê bình, nhà báo – những người chỉ cho các độc giả biết cuốn sách nào là hay, cuốn sách nào là dở. Do đó, các độc giả chỉ là thần dân trong vương quốc tri thức mà họ chỉ có nghĩa vụ tuân thủ các chỉ dẫn, thể hiện sự tôn trọng với các tác giả và dịch giả được ca tụng trên truyền thông bất kể đúng sai và chìa túi tiền để mua sách. Đây là tình trạng chung của thị trường sách kiểu cũ trước khi Internet hình thành, khi những độc giả bị chia rẽ bởi mặt địa lý và vòng kết nối của bản thân không thể chia sẻ các trải nghiệm đọc và các đánh giá của mình. Tiếng nói của độc giả nếu không được gắn nhãn mác là các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà nghiên cứu… sẽ không được người khác lắng nghe và không có giá trị tham khảo.

Internet đã thay đổi thế giới bằng cách nỗ lực xoá nhà các khoảng cách địa lý và mở rộng vòng kết nối giữa người với người, vô tình đã thay đổi cơ cấu của thị trường, khiến cho tiếng nói của người tiêu dùng trở nên có giá trị hơn, quyết định đáng kể đến lượng tiêu thụ sản phẩm. Thị trường sách cũng nằm trong số ấy, khi những phản hồi có chất lượng từ cộng đồng độc giả lại được lắng nghe hơn các nhà phê bình và nhà báo. Tại sao tiếng nói có chất lượng của một độc giả có gu đọc sách lại có uy tín đến vậy? Bởi vì một độc giả không bị gắn các nhãn mác đã kể trên không bị ràng buộc bởi các quyền lợi và trách nhiệm, do đó tiếng nói của họ là độc lập, không vụ lợi và chân thật với chính mình ở mức độ nào đó. Đây là những tố chất mà các độc giả khó tìm kiếm được ở các nhà phê bình và nhà báo có danh tiếngKhông ít lần chính bản thân tôi khi đọc điểm sách của các nhà phê bình và nhà báo đã băn khoăn về tính khả tín của các bài giới thiệu này, rằng họ có thực sự đọc sách, có thực sự công tâm không vụ lợi trong đánh giá, có chân thực khi chia sẻ các nhận định của mình…

Amazon và Goodreads có thể nói là hai cộng đồng phổ biến nhất cho phép độc giả bình phẩm sách. Các độc giả sau khi mua sách hoặc đọc các tác phẩm được đăng tải online có thể đưa ra nhận xét về chất lượng nội dung và chất lượng in ấn, bên cạnh đó có thể xếp hạng nội dung theo cảm nhận của mình. Một người mua sách thay vì tham khảo bài giới thiệu trên báo chí có thể xem các xếp hạng và bình phẩm từ những người lạ không quen biết. Lượng độc giả người Việt tham gia binh phẩm trên cả hai kênh này đều rất ít do các rào cản về ngôn ngữ và thói quen sử dụng. Tương tự như Amazon và Goodreads, tại Việt Nam, kênh bán sách Tiki cũng cho phép độc giả bình phẩm. Tuy nhiên, các độc giả của Tiki dường như không thực hiện được quyền lực của mình một cách hiệu quả. Nguyên nhân có thể đến từ việc chất lượng độc giả Việt Nam chưa đủ cao để đánh giá chi tiết một cuốn sách, hoặc tình trạng phản hồi giả nhằm mục đích hạ bệ hay quảng bá cho sách vẫn chưa bị hạn chế. Quyền lực của độc giả Việt Nam hiện nay không thực sự nằm ở các kênh bán hàng mà nằm ở các cộng đồng đọc sách trên facebook.

Rất dễ dàng để tạo một group hoặc fanpage trên facebook để một cộng đồng độc giả nho nhỏ thoải mái tương tác và trình bày ý kiến, thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm đọc. Các cộng đồng này đều có quy tắc làm việc riêng và cộng đồng nào có ý thức trong tuân thủ “luật giang hồ” do nhóm đặt ra đều sẽ thu hút các cá nhân độc lập tham gia. Một độc giả không bị ràng buộc trong sự gắn kết với một nhóm cụ thể mà có thể cùng lúc tham gia nhiều nhóm khác nhau và đối chiếu các nhận định trước khi đưa ra kết luận cuối cùng của mình về một cuốn sách. Các cộng đồng online thảo luận về sách này đã không ít lần chứng minh quyền lực của mình bằng việc bóc mẽ những vụ đạo văn, những bản dịch sai, những nội dung kém chất lượng… Đáng kể phải nói đến sự việc đinh đám của fanpage Ngôn tinh Ném đá Confession đã lật tẩy sự việc đạo văn nghiêm trọng chưa từng thấy trong cuốn tiểu thuyết dã sử “Thành Kỳ Ý” vào năm 2016. Trong thời điểm sự việc bị phanh phui, các nhà báo và nhà phê bình đã hết lời khen ngợi cuốn sách và kỳ vọng một hướng đi mới cho tiểu thuyết dã sử. Khi fanpage Ngôn tinh Ném đá Confession mới đăng tải một vài đoạn đạo văn, rất nhiều người vẫn cho rằng đó là một cuộc công kích cá nhân vào cô nhà văn trẻ đam mê đề tài lịch sử. Nhưng chỉ sau đó không lâu, khi cộng đồng đọc sách Book Hunter bắt đầu đăng tải một bài viết dài tổng hợp tất cả các điểm đạo văn mà page Ngôn tình Ném đá Confession đã chỉ ra. Ngay sau đó, một cuộc vận động hơn 1000 chữ ký đã được phát động bởi Book Hunter và page Ngôn tình Ném đá Confession để yêu cầu Cục xuất bản thu hồi cuốn sách. Mặc dù Cục xuất bản làm lơ trước yêu cầu này nhưng cuốn sách rơi vào tình trạng ế ẩm và đơn vị phát hành phải bán hạ giá 80% trong các hội sách. Trước đó, năm 2014, facebooker Thiên Lương, một độc giả độc lập đã thực hiện một cuộc bắt lỗi các lỗi dịch của dịch giả Dương Tường khi ông dịch cuốn “Lolita”. Sự việc đã trở thành một cuộc tranh luận báo chí kéo dài và thúc đẩy sóng truyền thông liên quan đến chất lượng của dịch giả. Sau đó, Thiên Lương công bố bản dịch của mình dù không được phát hành chính thức và nhanh chóng được cộng đồng độc giả chuyền tay nhau với lời đánh giá về độ chính xác của bản dịch. Đôi khi cộng đồng độc giả còn thách thức cả thẩm đinh của các nhà phê bình nếu cho rằng sự phê bình ấy là không xác đáng. Năm 2017, khi nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Phúc Anh đưa ra lời phê binh nặng nề đối với cuốn sách “Nguồn gốc và sự phát triển của trống đồng Đông Sơn” của Tạ Đức thì ngay lập tức đã bị cộng đồng sách Book Hunter phản đối cách phê bình thiếu cơ sở, thiếu bằng chứng của Nguyễn Phúc Anh. Những phản ứng của cộng đồng độc giả cho thấy các độc giả đang bắt đầu học cách thực hiện quyền của mình, và có thể tạo thành một sức ép để thúc ép các tác giả và dịch giả buộc phải làm việc một cách có trách nhiệm hơn.

Đúng vậy, đó là một cơ hội để thị trường sách trở nên sôi động hơn và có nhiều tiếng nói đa chiều hơn, tránh được tình trạng thị trường bị thao túng bởi một hoặc vào thế lực nào đó, tuy nhiên vấn đề nằm ở chỗ các độc giả chưa hoàn toàn ý thức được những quyền lợi và trách nhiệm của mình đối với cộng đồng. Các độc giả Việt Nam đa phần đều không được trang bị một nền tảng kiến thức tốt cùng với các kỹ năng phân tích, kỹ năng tranh biện và thảo luận. Bởi vậy, rất ít trong số các cộng đồng độc giả có thể đưa ra tiếng nói phản biện hoặc quan điểm riêng hay viết các bài phân tích sách có chất lượng. Một số cộng đồng sách trở thành nơi PR sách cho các đơn vị phát hành sách mà không hề có chuẩn mực trong thẩm định chất lượng bài giới thiệu. Hoặc đôi khi, cộng đồng độc giả lại trở thành fan cuồng cho một nhà phê bình hoặc một nhà báo nào đó và rất dễ dàng bị lái hướng.

Trên thực tế, thị trường đọc sách Việt Nam đang ở giữa một giai đoạn chuyển đổi giữa mô hình bị định hướng sang mô hình tự định hướng. Do đó, song song tồn tại cả tình trạng độc giả đọc sách theo sóng truyền thông và độc giả tự xây dựng gu đọc riêng cho mình. Cuộc giằng co này có thể sẽ kéo dài bởi người dân Việt Nam vẫn có thói quen trọng vọng các nhân vật nổi tiếng với bằng cấp và thành tích mà chưa luyện được thói quen phân định đúng sai; nhưng sự phát triển của mạng xã hội dường như không thể cưỡng lại nổi và các cộng đồng độc giả vẫn cứ gia tăng về chất lượng cũng như số lượng. Tôi cho rằng, trong tương lai, sự lớn mạnh của các cộng đồng độc giả là không thể cưỡng lại được và điều đó đòi hỏi ở các đơn vị quản lý xuất bản, các đơn vị báo chí, các tác giả, dịch giả, nhà phê bình, nhà báo phải làm việc nghiêm túc hơn, chỉn chu hơn, tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc học thuật và pháp luật. Đó là sự phát triển tất yếu của thời đại thông tin khi con người dễ dàng hơn để kết nối và lên tiếng.

Hà Thủy Nguyên

Bài đã đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ An số tháng 7/2018

Home 2019 / page 8

Mệnh và cải mệnh

Con người ta ai cũng có “mệnh” của mình! Họ thường nói vậy. Nhưng cái mệnh này là do ai sắp đặt, ai bày vẽ nên? Tất cả đều vô hình. Có tôn giáo cho là Thượng Đế, có tôn giáo cho là các vị thần, lại có niềm tin cho rằng những sự việc xảy đến với một người là một chuỗi xác suất của tự nhiên. Dù tin hay không, ta vẫn bị chi phối bởi một định mệnh mà không dễ để thay đổi nó theo ý mình. Và liệu rằng cái ý mình ấy cũng là một số mệnh đã được sắp xếp hay chẳng? Thế nên con người mãi cứ nghịch lý… Nhận thức rằng mình chỉ là diễn viên trên sân khấu của số phận nhưng lại không làm cách nào mà thoát được. Ấy là bởi người đời ít ai hiểu được cơ chế của mệnh quy định lên chúng ta.

Chúng ta thường tin rằng chúng ta chỉ có một thứ mệnh, thứ mệnh ấy quy định suy nghĩ, hành vi, các vận may cũng như tai họa đến với chúng ta. Dần dần, chúng ta đồng nhất mệnh được quy định cho chúng ta với chính bản thân chúng ta, rồi tin chắc chắn rằng đó là cuộc đời ta phải sống, phải tuân thủ, không thể thay đổi. Nhưng cơ chế của mệnh phức tạp hơn thế. Mệnh được chia ra làm ba loại, tạm gọi là Thiên mệnh – Địa mệnh – Nhân mệnh.

Nhân mệnh chính là các thói quen, các kỹ năng, các sở thích, các quan niệm được lưu lại từ các kiếp trước và được xây đắp thêm ở kiếp này. Nhân mệnh này là thứ chúng ta tin rằng đó là cá tính của chúng ta, là điểm riêng biệt là ta có thể nhận diện mình với đám đông. Điều này cũng không sai. Thế nhưng, nó là thứ mà ta có thể dễ dàng thay đổi thông qua quá trình quan sát tâm và rèn luyện tâm.

Địa mệnh là duyên nợ của các mối quan hệ mà chúng ta đã tương tác từ kiếp trước và kiếp này. Những duyên nợ này bằng một cách bí ẩn nào đó đã trở thành các sự kiện xảy ra với cuộc đời của ta. Thế nhưng, không phải tất cả các mối quan hệ kiếp trước đều sẽ tái hiện trong kiếp này, mà nó được chọn lọc để tạo nên số phận.

Thiên mệnh có cơ chế phức tạp hơn. Người nào phụ thuộc vào một hệ thống tôn giáo và tín ngưỡng thì những thứ ấy trở thành thiên mệnh của họ. Hoặc khi họ tin tưởng một điều gì đó là tốt đẹp để hướng tới thì điều đó cũng là thiên mệnh chi phối họ. Có thể có một hệ thống thiên mệnh chi phối con người. Thiên mệnh này có thể ảnh hưởng đến địa mệnh và nhân mệnh. Tuy nhiên một số ít người đặc biệt với sức mạnh tinh thần to lớn, không chịu khuất phục, tự do tự tại, có thể tạo ra thiên mệnh riêng cho mình và tự đặt cho mình cái sứ mệnh đến với thế giới. Nhưng thiên mệnh không phải lúc nào cũng tốt, lựa chọn thiên mệnh sai lầm (hoặc bị một thiên mệnh sai lầm chi phối) có thể đưa ta vào một chuỗi các suy nghĩ, hành vi tệ hại và nhận những hậu quả đáng buồn.

Một điều đáng chú ý là, nhân mệnh – địa mệnh – thiên mệnh không phải lúc nào cũng đồng nhất với nhau như người ta vẫn tưởng. Đôi khi một người có nhân mệnh và thiên mệnh tốt nhưng lại bị rơi vào địa mệnh rất tệ hại. Lại có lúc những người nhân mệnh chẳng ra sao, tiểu nhân, hèn hạ, bỉ ổi lại được một thứ thiên mệnh đang thắng thế dẫn dắt vào thứ bố cục địa mệnh tốt đẹp. Điều này không phải đơn thuần do “ăn ở” như người ta vẫn nói mà đơn giản là một thủ thuật sự phân bố phúc và họa trong chuỗi duyên nợ mà thế lực vô hình nào đó đã sắp xếp. Nếu bạn tin có thế lực vô hình, bạn sẽ hiểu rằng thế lực ấy can thiệp vào vận mệnh của ta.

Khi xem các loại tử vi từ Đông sang Tây, chúng ta chỉ xem được một phần nhân mệnh và địa mệnh mà thế lực vô hình đã sắp đặt cho ta. Thường khi làm con người, một xu hướng tính cách nào đó trong nhân mệnh sẽ được đẩy lên để đồng bộ với địa mệnh đã sắp đặt. Do đó, xem tử vi không cho ta thấy được toàn bộ nhân mệnh và càng không thể thấy được thiên mệnh. Khi xem kinh Dịch hay Tarot cũng chỉ cho ta thấy được cái địa mệnh của ta. Biết như vậy thì biết để làm gì?

Phàm là người, ai chẳng có ham muốn cải mệnh của mình để tránh họa gặp phúc. Thứ mà họ muốn thay đổi ấy là thay đổi địa mệnh, thứ được một thế lực vô hình nào đó sắp xếp nên dựa trên chuỗi duyên nợ nhiều kiếp của chúng ta. Thế là họ khấn vái thần thánh những mong thần thánh can thiệp được, tức là họ mượn lực từ thiên mệnh để thay đổi địa mệnh. Những trò cúng sao giải hạn, nghi lễ trả nợ tiền duyên, di tinh hoán số đều là như vậy cả. Lại có người những mong tu luyện để có thể thay đổi được số mệnh của mình, mang đến điều tốt đẹp cho người thân và xung quanh, điều này tức là họ gia tăng sức mạnh của nhân mệnh với sự hỗ trợ của thiên mệnh để mong cải được địa mệnh. Thế nhưng, đến Mục Kiền Liên, đại đệ tử của Đức Phật cũng không cải được địa mệnh của ông ta, tại sao bạn nghĩ rằng bạn có thể?

Cố gắng mở rộng nhân mệnh của mình, thoát khỏi sự áp đặt một xu hướng tính cách của bản thân do số phận quyết định, chỉ là bước đầu của cải mệnh. Khi ta hành xử khác đi so với quy định, các chuỗi duyên nợ cũng dần dần theo đó mà thay đổi. Đây là lý do khiến cho một số người tu hành bậc cao rất khó đoán biết sự kiện đến với họ. Thế nhưng, cho dù họ thay đổi bản thân mình đến đâu, họ vẫn cứ bị chi phối bởi các duyên nợ. Muốn cải mệnh thật sự, người tu luyện còn phải chủ động khuyến khích những người trong mối quan hệ của mình cũng phải thay đổi nhân mệnh của họ. Như vậy cũng không đủ, họ còn phải tự tạo thiên mệnh cho mình chứ không chấp nhận sự chi phối thiên mệnh của kẻ khác. Thế nên, con đường cải mệnh dài lâu và khó khăn, cũng ít người dám bước chân và đi trên con đường ấy.

Nhưng cải mệnh đến đâu thì cũng khó thoát được cái chết, chỉ là chết sớm hay chết muộn mà thôi. Cái chết là sự chấm dứt của địa mệnh nhưng nhân mệnh thì còn mãi, thiên mệnh là thứ ta có thể lựa chọn lại. Cái chết, đôi khi là cách để ta trưởng thành hơn, để ta trở về với con người thực của mình, vượt ra khỏi vòng chi phối của các thế lực vô hình. Nên nhìn cái chết như một cơ hội chứ không phải sự đau đớn.

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 8

Tự khúc cái chết

(Tôi viết cho bố ngày bố qua đời)

Ngày lại ngày… ta thấy cái chết ở mọi ngóc ngách của cuộc sống… Một bản nhạc hay đi đến phần kết… Một tấn kịch hay đã khép hồi… Một vần thơ đi đến kiệt cùng cảm xúc… Cái đẹp của bông hoa bỗng úa tàn… Cái chết luôn hiện diện. Những kẻ không thể cảm nhận được sự bi thương trong từng khoảnh khắc của sự sống thì không thể hiểu được cái chết.

Người ta nói cái chết là để bắt đầu cho một sự tái sinh. Những người nói vậy không hiểu gì về cái chết. Chết là chết, tái sinh là tái sinh. Chết là con đường duy nhất đưa ta đến với hư vô. Một sự hư vô tưởng chừng như miên viễn. Tại đây, ta được một mình đối diện với chính mình, được tự do không ràng buộc, được trút khỏi linh hồn mọi sự ô trọc của cõi đời đã khoác lên ta. Hư vô là tột đỉnh hạnh phúc của sự chết.

Những kẻ còn sống khóc thương người đã khuất không phải vì tình thương mà vì sự níu kéo, vì sợ cảm giác trống trải, vì mơ hồ không thể tiếp nhận nổi nỗi cô đơn sung sướng của hư vô. Kẻ còn sống mông muội như những ngôi nhà trơ trọi khư khư bám lấy nền móng của mình, hiểu sao thấu sự bay bổng không giới hạn của gió, chịu sao nổi những trận mưa liên hồi của bi thương, và không thể bình an như vầng trăng ung dung dát bạc khắp bốn phương lồng lộng. Bởi thế, kẻ còn sống đôi khi chỉ là vật thể chết, mà người đã chết lại thổi bừng lên sức sống mãnh liệt. Sống chết bởi thế, chỉ là khái niệm.

Khi nghe một bản nhạc, đọc một bài thơ, xem một tấn kịch, ngắm vẻ đẹp của hoa… , kẻ hiểu về cái chết không yêu thích khoảng thời gian “còn sống” của chúng, mà yêu thích cái cảm giác những tạo tác tuyệt diệu ấy đã thay đổi ta, tái tạo ta thành một khối linh hồn hoàn mỹ hơn. Một người chúng ta yêu quý ra đi, ta có thể quên đi rất nhiều ký ức về họ nhưng ta lại say đắm với những gì của họ ở trong ta. Cái chết của một người yêu quý khiến ta yêu bản thân mình hơn, bởi ta nhận ra rằng sự hiện diện của ta là hiện thân cho sự tồn tại của ho trên thế giới điên đảo này. Bằng cách ấy, ta gần gũi với họ hơn bất cứ sự khóc thương nào khác. Và cũng bằng cách ấy, ta gắn kết với họ ở cõi hư vô mà không ràng buộc níu kéo họ.

Tại nơi chốn hư vô ấy, khi tất cả đều im bặt và tĩnh lặng, người đã khuất có thể nhìn lại vận mệnh của mình trong kiếp vừa trôi qua, hoặc xa xưa hơn thế. Nhưng nếu ta xâm phạm sự tĩnh lặng ấy bằng việc đưa linh hồn người đã khuất vào một “cõi” nào đó mà chúng ta tin rằng ở “cõi” ấy linh hồn sẽ được an ủi, thì ta đã sai lầm. Các “cõi” chỉ là những cái bẫy lừa bịp của loài ác quỷ giăng ra để bãy những linh hồn kém cỏi và sợ hãi. Tại các “cõi” này, linh hồn lại phải khoác lên mình những chiếc áo và lại bị đưa vào những nơi chốn đầu thai phù hợp với cái áo vừa khoác lên. Thế rồi người ta gọi đó là … “siêu thoát”.

Sự siêu thoát thật sự chỉ đến với những tinh thần hoàn toàn tự do, tự do khỏi chiếc áo, tự do khỏi ham muốn sự sống, tự do khỏi mọi định mệnh. Sự tái sinh chỉ diễn ra khi định mệnh được lựa chọn một cách tự do chứ không phải sự áp đặt. Đó là sự siêu thoát đích thực chứ không phải những cái bẫy nhân danh “siêu thoát”. Và bởi ta để người ta yêu quý tự lựa chọn cho bản thân con đường ở cõi chết, họ sẽ chọn định mệnh quay trở về bên ta. Bởi một phần của họ luôn hiện diện trong ta giống như âm vang cảm xúc của khúc nhạc, những thang bậc tình cảm của thi ca, những chiêm nghiệm sau một vở kịch, ấn tượng đẹp đẽ của bông hoa… đều đã hòa quyện cùng tinh thần ta.

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 8

Cơ chế của những lời tiên tri

Nhu cầu biết trước về một tương lai có thể xảy ra luôn kích thích trí tò mò của con người, bởi thế quyền năng tiên tri là điều được ngưỡng vọng vào bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Thế nhưng, cơ chế để hình thành nên một lời tiên tri không giống nhau, hay nói một cách khác cơ cấu của từng hệ thống quyền năng tiên tri khác nhau rất nhiều.

“Tiên tri” có nghĩa là “biết trước”. Chữ “tri”, theo Từ điển Thiều Chửu, có nghĩa là khả năng phân biệt, phán đoán, ghi nhớ, nhận biết của con người. Luận về chữ “tri” này, có lẽ sẽ cần đến một cuốn sách triết học, nhưng ở đây ta có thể hiểu “tri” như một cách nhận thức về thế giới. Như thế, “tiên tri” có thể hiểu là khả năng nhận thức thế giới nhanh hơn và đi trước thiên hạ, nhà tiên tri là người có thể nhận thức được những điều mà người khác chưa thể nhận thức được, mà tương lai là một phần trong đó. Khái niệm “nhà tiên tri” trong tiếng Anh là “prophet” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “prophetes” có nghĩa là “người phát ngôn của các vị thần” hay “bậc thầy truyền cảm hứng”, trong đó “pro” có nghĩa là “trước”, cụm “phetes” có xuất phát cổ xưa hơn, từ “phanai” có nghĩa là “nói”. Vì thế, khái niệm “prophetes” ở phương Tây mang tính truyền tin, rao giảng nhiều hơn khái niệm “tiên tri” ở phương Đông. Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi không có ý định chọn một trong hai nghĩa để phân tích về loại quyền năng vừa kể trên, mà sẽ bao trọn cả hai nhóm nghĩa  và gọi chung là “tiên tri”.

Xét về quyền năng tiên tri, ta có thể phân loại theo các cơ sở của dự đoán như sau:

#1. Tiên tri dựa trên dữ liệu

Những ai tìm hiểu về “big data” sẽ hiểu về cơ chế này. Khi người nào đó biết được càng nhiều dữ liệu trong quá khứ và hiện tại, lại có cơ chế xử lý và phân tích những dữ liệu ấy nhằm nhìn ra quy luật, người đó sẽ đoán trước được xu hướng những gì có thể xảy ra trong tương lai. Đây là lối “tiên tri” được các nhà xã hội học, kinh tế học yêu thích dù bước vào con đường này thì thử sai thất bại nhiều hơn là thành công. Tuy nhiên, trên thực tế, các cách tiên tri này còn có độ phổ rộng hơn nhiều, ở cả nhiều lĩnh vực của đời sống.

Sau này, người ta ghi chép lại những quy luật thành các hệ thống như astrology, numerology, tử vi, dịch số, xem tướng,… để cung cấp một bộ công cụ mà những người có ít dữ liệu hơn vẫn có thể sử dụng được, đỡ mất công đi khảo sát. Có thể nói, các bộ môn ấy chính là các hệ thống mô hình hóa một lượng dữ liệu khổng lồ (từ dữ liệu về các thành phần của xã hội, các chuỗi sự kiện, cấu tạo của con người cả về tinh thần và vật chất, và thậm chí là cả các biến động tự nhiên như thời tiết hay bầu trời sao…) một cách thông minh. Nền văn minh loài người bị tiêu hủy nhiều trong chiến tranh, thế nên người ta chỉ còn giữ được những thứ lập tức ứng dụng ngay chứ không hiểu được cơ chế mô hình hóa từ khối dữ liệu khổng lồ ấy cụ thể là như thế nào. Sau này, có thể khoa học phát triển, các ngành nghiên cứu vật lý lượng tử, công nghệ gene, khoa học não bộ… biết đâu lại có thể giải thích được cơ chế mô hình hóa ấy chăng? Nhưng đó là chuyện của tương lai. Tuy nhiên, loại công cụ ứng dụng tức thời dựa trên ghi chép cổ xưa này sẽ gặp phải vấn đề trục trặc khi có quá nhiều sai số do lượng dữ liệu bị tăng đột biến mà không theo các quy luật đã được định sẵn trong đó. Thế nên, người sử dụng chúng để tiên tri phải nhận biết được giới hạn của chúng và vừa sử dụng vừa lấy thêm dữ liệu từ bên ngoài rồi tạo nên các mô hình mới. Vấn đề là, không hiểu được cách mô hình hóa cổ xưa, làm sao có thể tạo ra cách mô hình hóa mới được. Thế nên, e rằng các hệ thống này sẽ bị lung lay trong thời gian tới.

Loại tiên tri này là nguồn cảm hứng cho không ít các nghiệp vụ điều tra đang thịnh hành trong điện ảnh Holywood hiện nay cũng như các hình mẫu quân sư trong tiểu thuyết và phim truyền hình Trung Quốc. Để có khả năng tiên tri dựa trên dữ liệu, chúng ta phải dựa trên sự hiểu biết, phân tích, phán đoán, không dễ dàng gì thực hiện được đối với những ai lười biếng.

#2. Tiên tri nhờ vào thế lực cõi vô hình

Một trong các nghĩa của “tiên tri” theo tiếng Hy Lạp, như đã nói ở trên, là “người phát ngôn của các vị thần”. Trong bài về muôn vẻ nhập đồng, tôi đã nhắc đến họ (Đọc thêm tại đây: https://nghiencuutongiao.info/2017/05/15/muon-ve-nhap-dong-hay-nhung-cai-bay-tam-linh/ ). Do một sự kết nối vô tình hay hữu ý, tâm trí của họ bị điều khiển bởi một thế lực tâm linh nào đó. Thế lực tâm linh này, có thể thiện hoặc ác, cho họ thấy những thông điệp hoặc viễn ảnh. Ví dụ như trong Kinh Thánh, Thượng Đế cho Noeh biết trước về trận đại hồng thủy; hoặc trong thần thoại Hy Lạp, những cô đồng Pithy của đền Delphi làm nhiêm vụ chuyển trao ý của thần Apollon và các vị thần Olympus; gần gũi hơn với chúng ta là các bà đồng xem bói hoặc các thày phù thủy nuôi vong hồn để lấy thông tin từ cõi âm… Những nhân vật lớn như Nostradamus, Vanga, Edgar Cayce … đều thuộc dạng này.

Thường thì, những người nói ra các thông điệp hoặc viễn ảnh này không ý thực được tại sao các thế lực tâm linh lại cho họ biết những điều ấy. Họ chỉ biết tuân phục hoặc trục lợi mà thôi. Thế tức là nếu các thế lực tâm linh vô hình mượn họ để thực hiện kế hoạch của mình, họ cũng không thể biết. Ví dụ như những lời tiên tri loại này đã hủy hoại các anh hùng Hy Lạp như Hercules, Oedipus và phần nào gây nên cuộc chiến thành Troy. Chúng ta thường chấp nhận lời tiên tri hoặc hướng dẫn từ thế lực thần thánh để giải quyết lợi ích trước mắt nhưng ít khi nào có thể tính toán được những diễn biến lâu dài có thể xảy ra từ những lời tiên tri ấy.

Nếu các bạn quan sát kỹ các kiểu bói lá, xóc quẻ hay bài tây, tarot, các bạn sẽ thấy rằng chúng bị chi phối bởi thế lực tâm linh nào đó, có thể thiện hoặc ác, thấp hoặc cao, mạnh hoặc yếu, tùy sự kết nối của người xem. Đa phần, chính những người bói cũng không ý thức được điều này. Một số người ý thức được, họ sẽ tạo ra sự đàm phán giữa bản thân và thế lực ấy hoặc chọn lựa thế lực phù hợp với mình, hoặc thậm chí là không tùy tiện bói toán nữa.

Những cách bói dựa vào thế lực vô hình này rất “hên xui”. Thường thì khi nào thế lực tâm linh vô hình ấy đủ mạnh để kết nối thì các thông điệp hoặc viễn ảnh sẽ chính xác, nếu không thì người tiên tri phải tự bịa ra thông điệp hoặc viễn ảnh. Trường hợp bị “mất kết nối” dẫn đến “mất linh” xảy ra khá thường xuyên. Thế nên, một áp lực không nhỏ đối với những người xem bói kiểu này là giữ sự kết nối ấy bằng việc tuân thủ một số luật lệ nhất định hoặc thường xuyên chủ động tạo sự kết nối bằng tiếp xúc biểu tượng hoặc cầu nguyện. Nếu không, họ sẽ phải từ bỏ nghề này hoặc bịa đặt các thông điệp theo kiểu dân gian ta vẫn nói đùa là  “thày bói nói dựa”.

#3. Tiên tri bằng phát ngôn

Zarathustra, Moses, Jesus, Mohammed… đều được gọi là ngôn sứ hoặc “nhà tiên tri” mặc dù họ không đưa ra tiên đoán nào về vận mệnh nhân loại. Trong thần thoại Hy Lạp, nhân mã Chiron cũng được gọi là nhà tiên tri mặc dù ông ta chỉ làm mỗi việc là dạy dỗ cho các anh hùng. Vậy thì cách họ “tiên tri” là gì? Họ tiên tri bằng việc biến lời nói của mình thành hiện thực. Họ có một ý tưởng để cải tạo và thay đổi con người hoặc thế giới, họ tạo các ám thị trong tâm trí người nghe, khiến người nghe bị thuyết phục. Cứ thế, nhân rộng lên, họ tạo ra sự ảnh hưởng đối với thế giới và thay đổi thế giới. Tức là bằng lời rao giảng, họ thúc đẩy thế giới theo cách họ mong muốn.

Các nhà chính trị, nhà triết học, nhà văn đều có khả năng thực hiện điều này. Một khi lời nói ấy chứa đựng trong nó nhiệt huyết và niềm tin tưởng tuyệt đối, nó có thể thuyết phục được số đông quần chúng đi theo. Khi số đông quần chúng bị thôi miên bởi lời nói, họ sẽ hành động để biến lời tiên tri ấy thành hiện thực. Thế nhưng, thường thì lời tiên tri loại này có ảnh hưởng tích cực chẳng được bao lâu, và thường bị lợi dụng để tạo ra một thể chế toàn trị. Một số nhà giáo dục hay các nhà tâm lý học cũng thường đưa ra những lời tiên tri dạng này như một liệu pháp tâm lý và hậu quả là chúng tạo nên một cái tôi khác cho người được giáo dục hoặc điều trị. Cái tôi này nếu ở trong môi trường thích hợp sẽ ngày càng lớn tới mức người ấy ngày một xa rời bản thể của mình và trở thành robot vận hành theo đúng thứ lời tiên tri ấy đã cài đặt.

Lời tiên tri loại này có thể bị biến thành nguyền rủa khi có người dùng nó với mục đích xấu. Một lời nguyền rủa được tung ra với lòng thù hận sẽ trở thành một chuỗi các ám thị lên người xung quanh và đối tượng bị nguyền rủa . Họ bị lời nguyền thôi miên đến mức càng cố thoát khỏi lời nguyền rủa thì lời nguyền rủa càng phát tác. Nếu chúng ta không cẩn thận trong phát ngôn, một câu nói vô tình có chứa cảm xúc của chúng ta hướng tới một đối tượng nào đó cũng có thể trở thành lời nguyền rủa tới mức đối tượng ấy bị triệt hạ. Bởi thế, một khi ta càng có sức ảnh hưởng lớn thì ta càng phải cẩn thận lời nói của mình.

Tiên tri bằng lời nói cũng có thể trở thành những điềm báo ngụy tạo để làm chao đảo nhân tâm. Những điềm báo ngụy tạo này thường được tung ra khi người ta có ý định tiêu diệt một triều đại hay một tổ chức hay lật đổ một cá nhân nắm quyền nào đó; cũng có thể dùng để làm dư luận nhằm ủng hộ một người nào đó nắm trọng trách. Đây là một thủ thuật chính trị tầm thường, rất dễ phát hiện nhưng người ta lại thường dễ bị lừa gạt, nguyên nhân là do sự ngụy tạo ấy mang lại lợi ích cho người tiếp nhận nó, vì thế người ta sẵn sàng bỏ qua sự nghi ngờ và tính xác thực. Những điềm báo ngụy tạo này thường đóng vai trò như “giọt nước tràn ly” trong các tình huống mang tính thay triều đổi đại.

***

Mặc dù phân chia ra 3 loại cơ cấu tiên tri như thế, nhưng trên thực tế ba loại này đan xen với nhau khá phức tạp. Một người tiên tri bằng dữ liệu không chính xác lại có thể vô tình tạo ra loại tiên tri dựa trên lời nói. Một người tiên tri dựa trên lời nói có thể biết các dữ liệu nhưng vì muốn thay đổi tình thế nên cố tình tạo ra một lượng lớn các dữ liệu mới để gây sụp đổ hệ thống cũ. Một người tiên tri nhờ vào thế lực vô hình cũng có thể trở thành tác nhân dẫn đến việc cả nhân loại bị ám thị mà làm theo; hoặc lời tiên tri từ thế lực vô hình ấy cũng là dựa trên dữ liệu chúng ta không có khả năng tiếp cận được mà chỉ các vị thần mới có thể…v…v…

Ngoài ra, về cùng một sự việc diễn ra trên Trái Đất hoặc về số phận của một con người, từ rất nhiều hệ thống và cách thức khác nhau người ta có thể đưa ra các lời tiên tri khác nhau. Nếu tin vào một hệ thống thì chẳng phải chúng ta chỉ là vai diễn của vở bi hài kịch mà hệ thống ấy mong muốn ư? Nếu tin tất cả các hệ thống đưa ra tiên tri khác nhau ấy thì chẳng thà chúng ta không tin gì cả, mà chỉ ghi nhận có hơn không? Bạn muốn rơi vào trò chơi tâm trí ngớ ngẩn ấy ư?

Tóm lại, tiên tri là một trò chơi nguy hiểm mà loài người không nên lạm dụng và cũng không nên quá tin tưởng. Bởi lẽ, thế giới chúng ta đang sống là một thế giới của rất nhiều khả năng và con người có thể có rất nhiều lựa chọn nếu biết động não suy nghĩ. Thế thì tại sao phải biết trước tương lai để rồi bỏ qua vẻ đẹp của hiện tại?

Hà Thủy Nguyên