Home 2021 / page 2

Nam ai tóc vương trăng

Dậy mùi cơn điên vào mây
Trăng
Oán than phần phật gió mây ngàn
Mộng trần đã bén thời tiêu tán
Miệng trăng mỉm khoé hạnh cười tàn

Í ơi
Lòng trăng còn lả lơi
Trỗi cơn hoang dã bạo dâm đời
Mệnh người tơi tả cơn thành bại
Trắng tay hồn lặng miệng mỉm cười

Nguyêt khúc lặng thinh
Mệnh bỗng rùng mình
Phong trần gào thét
Tinh bỗng hiện hình

Dập dềnh cơn nước nổi trôi quốc vận xoay vần
Hồn hát Nam ai trông vời cổ quốc
Lênh đênh một cuộc đợi chờ mai hậu

Í a bóng ai xa
Khuất nẻo áo bay la đà tử cuộc
Ngục u hồn chấn song vừa khép
Lụi niềm đau vừa bén lửa
Khúc củi mục khói lam màu

Í ơi
Ta lại lả lơi thả tóc cuốn trăng buông
Sợi tơ tình vấn vương hồn bảo tháp
Chuông quốc tự nện tục lụy vào mây
Tóc trăng buông gỡ niềm phàm bụi rụng

Bóng phồn hoa đã lịm màu giả dối
Có nghe chăng trăng đã vén mây ngàn

Hà Thủy Nguyên

Home 2021 / page 2

Khi đời sống ngôn ngữ thiếu tính cảm xúc và ngôn từ gợi tả

“Tôi yêu tiếng nước tôi…từ khi mới ra đời…à ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời…”

(Trích “Tình ca” của Phạm Duy)

Mơ màng trong tiếng ru với giai điệu êm ái, một đứa trẻ lớn lên trong không gian ấy luôn có điểm chạm ngôn ngữ sâu sắc trong tâm trí. Dễ chịu trong vòng tay yêu thương của mẹ, lim dim để mặc những cảm xúc ấm áp dưới biểu hiện của ca từ ngấm vào tâm hồn non nớt, từ đó, lớp ngôn ngữ đầu tiên được hình thành.

Nhưng đời sống hiện đại đã bứt những đứa trẻ khỏi đời sống ngôn ngữ tự nhiên tràn ngập cảm xúc và biểu trưng này, gò chúng vào những quy chuẩn của nguyên tắc, để rồi chúng ta vẫn liên tục chất vấn xã hội một cách bế tắc vì sự khô khan trong ngôn ngữ ở giới trẻ, nếu không muốn nói là ngày càng đi vào ngôn ngữ tiện dụng hoặc mang tính giải trí.

Ngôn ngữ về bản chất luôn sống động và biến đổi. Không có thứ ngôn ngữ nhất quán và bất biến. Chiều hướng vận động của ngôn ngữ phụ thuộc nhiều vào phương thức và mục đích giao tiếp, tức là khi cấu trúc xã hội thay đổi thì chắc chắn ngôn ngữ sẽ thay đổi. Việt Nam đã chứng kiến một cuộc đổi thay từ cấu trúc xã hội dẫn đến biến chuyển ngôn ngữ vào cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20: cuộc hợp nhất giữa ngôn ngữ giàu tính thơ ca của Á Đông với tính lý trí của ngôn ngữ hệ Latin đã dẫn đến sự xuất hiện của những từ ngữ mới, lối nói mới, văn chương mới…trong một bầu không khí cảm hứng và biểu đạt cảm xúc hoàn toàn khác.

Để biểu hiện rõ nét cho sự chuyển đổi này, tôi xin nhắc lại đôi lời phát ngôn hang hái của nhà phê bình văn học Hoài Thanh về sự chuyển đổi trong văn phong: “Họ bắt đầu viết quốc ngữ, một thứ chữ mượn của người phương Tây. Câu văn của họ cũng bắt đầu có cái rõ ràng, cái sáng sủa của văn tây”; và cả trong tư tưởng cũng như tư duy: “Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu, ghét, giận hờn nhất nhất như ngày trước.”

Thế kỷ 21, Việt Nam cũng nằm trong một cuộc chuyển đổi lớn: xã hội biến chuyển thành thị trường, giao tiếp thông qua phương tiện số chen giữa đời sống tương tác giữa người với người, áp lực về sự thành đạt được đặt cao hơn những giao cảm tâm hồn và nguyên tắc đạo đức… Sự chuyển đổi này đòi hỏi ngôn ngữ phải trở nên đại chúng hơn, dễ sử dụng hơn, thậm chí là giản tiện hơn. Ví dụ, cùng sự diễn tả cho cảm xúc buồn bã, người trung đại ưa thích từ “sầu muộn”, tác giả thế kỷ 20 sử dụng linh hoạt cả từ “buồn” và “sầu muộn”, “rầu rĩ”… còn lối nói của người đương đại chỉ đơn giản là “buồn”. Bởi vì từ “buồn” ngắn gọn hơn, giản tiện hơn.

Những lối chơi chữ vẫn tồn tại trong giao tiếp đương đại, ví dụ như người ta có thể nói vui là “buồn như con chuồn chuồn” hay “chán như con gián”. Cách chơi chữ này không nhằm diễn tả đa chiều hơn trạng thái đề cập đến, mà chủ yếu nhằm mục đích giảm nhẹ tình trạng ấy, hoặc nhằm mục đích giải trí thông qua giễu nhại. Thủ pháp gieo vần hoặc nói lái mặc dù dễ khiến người nói cảm thấy thú vị nhưng ngoài tác dụng giải trí, chúng không làm gia tăng vốn từ hay năng lực vân dụng ngôn ngữ đa dạng để biểu hiện suy nghĩ cũng như cảm xúc cá nhân.

Trang Sciencemag, năm 2014 cho biết, các nhà nghiên cứu trong nhóm của nhà động vật học Tatsuya Amano thông qua phương pháp thống kê dữ liệu đã chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế hay chính xác hơn là mong muốn tăng trưởng nóng là nguyên nhân dẫn đến sự chết mòn của ngôn ngữ. Khi áp lực tăng trưởng nóng là động lực chính, người dân sẽ có nhu cầu học các ngôn ngữ mới có khả năng mang lại lợi ích kinh tế cao hơn, mà ở trường hợp của xã hội Việt Nam đương đại thì là tiếng Trung Quan Thoại và tiếng Anh.

 Với nhu cầu tăng trưởng nóng, người dân mà giờ đây đóng vai trò như những nhân công lao động khao khát có bậc lương cao hơn đã chọn cách sử dụng tiếng Việt ở mức độ giản tiện; thay vì đó đầu tư phần lớn công sức cho học các ngoại ngữ mà trong tương lai chắc chắn sẽ trở thành “cần câu cơm” hữu ích.

Toàn bộ quá trình này khiến thứ ngôn ngữ chúng ta thường xuyên sử dụng để giao tiếp, tiếp xúc, trải nghiệm trở nên giản tiện tối đa. Những từ vựng phức tạp, trước hết là bị loại bỏ khỏi sự giao tiếp, sau đó là loại bỏ dần khỏi văn bản báo chí, rồi biến mất dần trong văn chương.

Đây là sự đứt gãy văn hóa lần thứ hai. Lần thứ nhất đã diễn ra dần dần trong suốt thế kỷ 20 khi chữ Quốc ngữ trở nên phổ cập và chữ Nho lui về dĩ vãng chỉ còn in bóng trong hình ảnh “những người muôn năm cũ/hồn ở đâu bây giờ”. Số lượng những người vừa thông thạo chữ Nho, vừa thông thạo tiếng Pháp và giỏi chữ Quốc ngữ ngày càng thưa dần trong suốt thế kỷ 20, thay thế dần bằng các cây bút chỉ thông thạo quốc văn và biết đôi chút Pháp ngữ, sau đó là chỉ tiếng Việt phổ thông. Sự đứt gãy này đã tạo ra khó khăn không hề nhỏ khi nghiên cứu, tiếp cận và thưởng thức các tác phẩm ngôn từ của văn học trung đại.

Khi bước sang thế kỷ 21, với sự giản tiện trong ngôn ngữ, tiếng Việt phổ thông vẫn từng bước tự loại trừ các ngôn từ hoặc lối nói phức tạp hơn so với nhu cầu giao tiếp, mà cụ thể ở đây là sự đa dạng trong ngôn ngữ sẽ bị thay thế bằng nhu cầu “dễ hiểu” trong mọi diễn ngôn. Một khi chúng ta đã quá quen với sự “dễ hiểu” thì chúng ta sẽ không có động lực để tiếp cân với những văn bản hoặc tình huống giao tiếp “khó hiểu”. Điều này tạo ra sự phân cực mạnh mẽ giữa hàn lâm và đại chúng, nơi thế giới đại chúng không có nhu cầu hiểu các ngôn từ “bị” cho là “hàn lâm”, và nhóm thiểu số những người có đủ tri thức để hiểu các văn bản xa lạ với đại chúng thì lại chẳng hề quan tâm đến đại chúng. Nếu sự đứt gãy văn hóa ở đầu thế kỷ 20 là sự đứt gãy về thời gian, thì sự đứt gãy văn hóa trong đầu thế kỷ 21 là sự rạn nứt trong tâm thức xã hội: một phía thuộc thiên hướng cộng đồng, một phía ngả hẳn về thị trường.

Nhân định của tôi có thể là võ đoán, bởi tôi không có đủ các công cụ thống kê để xác định số liệu cụ thể về sự phân cực này, tôi chỉ có thể đưa ra những trải nghiệm của bản thân. Chúng ta hãy cùng nghĩ về đứa trẻ và những lời ru của mẹ.

Tôi nhớ khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường ru tôi những câu như thế này: “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh/Ai lên xứ Lạng cùng anh/Bõ công bác mẹ sinh thành ra em/Tay cầm bầu rượu nắm nem/Mảng vui quên hết lời em dặn dò/Gánh vàng đi đổ sông Ngô/Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương”. Một loạt những từ ngữ và điển cố đã không còn thông dụng và dễ hiểu, bao gồm: “bác mẹ”, “mảng vui”, “sông Ngô – sông Thương”. Trong quá trình tôi học nói, mẹ tôi sẽ dần dần giải thích ngữ nghĩa khi tôi thắc mắc, và toàn bộ các từ vựng ấy trở thành một phần của hệ thống ngôn ngữ đi sâu vào tiềm thức của tôi. Khi lớn lên, nhìn vào các cuốn sách, tôi cảm thấy khá ngạc nhiên khi ai đó cần phải có chú thích cho mỗi từ vựng này, và khi nói chuyện với bạn bè mình, tôi nhận ra đa phần trong số họ không hề hiểu nghĩa của chúng.

Khi tôi đóng vai trò như người mẹ, tôi đã mua những đĩa nhạc hát ru cho con gái tôi nghe, nhưng những ngôn từ trong lời ru phát qua đĩa CD lặp đi lặp lại ấy không tạo nên bất cứ cảm giác gì cho đứa trẻ. Và tôi có theo dõi những đứa trẻ khác chỉ học nói qua ngôn ngữ giao tiếp, không tiếp xúc bất cứ chút nào với lời ru, thì vốn từ vựng của của em bé ấy lại càng ít hơn. Con gái tôi khi tiếp xúc với khúc ru mà tôi đã được nghe mẹ tôi ru hồi nhỏ, không hề có nhu cầu hiểu và không có bất cứ sự gắn kết nào. Thay vì đó, con gái tôi sẽ dễ thấy thích thú với các bài vè với hình ảnh đơn giản và quen thuộc với đời sống, ví dụ như: “Con gà cục tác lá chanh/Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi/Con chó khóc đứng khóc ngồi/Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”.

Những trường hợp tương tự tôi cũng đã gặp không ít ở lứa các bạn trẻ 9X tiếp xúc với cộng đồng Book Hunter mà tôi thành lập. Cũng tương tự như con gái tôi, tôi đoán rằng rất ít trong sống các bạn ấy được nuôi dưỡng bằng lời ru của mẹ mà tiếp xúc qua lời ru trên cassete hoặc đĩa CD. Họ trưởng thành cùng áp lực học tập để tương lai trở thành một người thành đạt trong xã hội với bậc lương cao và đương nhiên tiếng Anh cùng với các môn khoa học tự nhiên luôn được ưu tiên hơn. Đời sống tương tác của họ là các forum và mạng xã hội, nơi ngôn ngữ giản đơn, dễ hiểu, tiện lợi được ưa chuộng.

Nếu như trước đây các văn bản luôn đòi hỏi sự sáng tạo trong dùng từ, hạn chế sự lặp đi lặp lại các từ khóa bằng cách biến tấu nhiều lối diễn đạt khác nhau, thì trong các văn bản trên Internet hiện nay, sự lặp đi lặp lại từ khóa lại trở nên tối quan trọng để đáp ứng nhu cầu kỹ thuật SEO (*), và tất yếu các độc giả trẻ này không còn trải nghiệm lối diễn đạt phức tạp mà thay dần bằng đọc nhanh để lấy thông tin.

Khi nhu cầu đọc nhanh – mà bản chất là lấy thông tin nhanh trở thành thói quen phù hợp hoàn toàn với lối sống nhanh phục vụ mục đích trở thành người thành đạt, thì ngôn ngữ phức tạp trở thành lực cản. Dần dần, họ bỏ qua thơ, bỏ qua các hình thức văn chương duy mỹ, bỏ qua những văn bản đòi hỏi phải tìm tòi thêm kiến thức để hiểu. Không lạ khi một bạn trẻ hoang mang trước những từ Hán Việt kỳ dị trong thơ Đinh Hùng, hay cười nhạo câu Kiều nổi tiếng “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” chỉ bởi vì họ không hề được trang bị những lớp ngôn ngữ phức tạp cả nội hàm và biểu hiện đủ để hiểu các biểu tượng.

Sẽ thật bế tắc khi chúng ta nỗ lực nâng cao văn hóa đọc mà lại không mở lối cho độc giả trẻ bằng cách tạo ra môi trường ngôn ngữ đầy cảm hứng, để khôi phục dần dần những khuyết thiếu trong đời sống ngôn ngữ giản tiện ngày nay.

Chúng ta có nhiều tiệm sách, có nhiều buổi thảo luận học thuật, có nhiều ý tưởng để nâng cao vốn tiếng Việt của học sinh… nhưng chúng ta quên mất rằng ngôn ngữ là một phần của đời sống, và nếu xã hội có quá ít khoảng không cho sự phát triển của tinh thần thì ngôn ngữ theo đó cũng sẽ bị bào mòn.

Con người trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, không chỉ chạy theo ước ao thành đạt để sinh tồn ở bậc cao trong tháp phát triển của xã hội, con người còn cần nuôi dưỡng tâm hồn và nếu ngôn ngữ không phải là công cụ để gắt kết tâm hồn với tâm hồn thì ngôn ngữ sẽ trở thành vật cản gây chia rẽ. Khi ấy, con người sẽ trở nên dễ bị kích động hơn, dễ sa đà vào những lời dẫn dụ thiếu căn cứ và đó là mầm mống cho các mâu thuẫn xã hội.

Hà Thủy Nguyên

Đây là bản đầy đủ của bài viết “Tăng trưởng kinh tế khiến ngôn ngữ bị bào mòn” đăng trên Báo An ninh thế giới giữa và cuối tháng sống tháng 4 năm 2021.

*SEO: Viết tắt của “Search engine optimization”, tạm dịch là “tối ưu hóa công cụ tìm kiếm”. Đây là một thủ thuật của người làm nội dung website nhằm chiếm vị trí cao trong thứ tự tìm kiếm của Google bằng cách đảm bảo các yếu tố kỹ thuật, trong đó có sự lặp đi lặp lại bộ từ khóa.

Home 2021 / page 2

Thuyền âm nhạc nay đâu…

Ta là ta rơi khi mưa
Đêm luồn đêm buồn ai xưa
Hẻo tứ thơ lăn thảm bụi
Ướt hơi chợt lạnh mấy ai về

Bóng người xưa
Một người xưa
Lại một người xưa
Bước chân không tiếng
Lời không lời
Lướt qua nhau gió rụng cành mây rung rinh đọng

Thuyền âm nhạc xác xơ mùa lạc lối
Uốn mình nay đà chật hẹp phàm thân
Tỉa đôi cánh
Bóng lông thẫm máu
Lạc phố phường trận gió bụi đòi cơn

Đêm mưa suông
Chẳng nghe tiếng oán hờn
Vọng ngàn năm sâu thẳm
Vực đã bịt và thiên đường cũng đứt
Dây đàn xưa ai nối lại cũng âm
Đoàn ca vũ mây chế bốn cõi
Lạc điệu rồi
Nghe chăng
Lạc tôi thôi

Cố nhân mím miệng cười không tiếng
Cánh vô thường trổ đôi sợi chờ mong
Mưa ướt át gội tim tôi nứt vỡ
Điệu cổ phong vừa thoáng động cõi lòng

Home 2021 / page 2

Bản dịch mới Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn

Một điều thú nhận khó chối cãi, tôi không thích những bản thơ chữ Hán được dịch sang thể lục bát hoặc song thất lục bát, vậy nên, dù bản “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn do Đoàn Thị Điểm diễn Nôm hay tới cỡ nào đi chăng nữa cũng không làm tôi bị lay động (Nhiều học giả cho rằng đó là bản diễn Nôm của Phan Huy Ích).

Âm hưởng của nguyên tác là sự kết hợp giữa sự bi tráng của thơ biên tái với nỗi buồn day dứt của dòng thơ chinh phụ, trong khi ấy bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm thiếu đi âm hưởng bi tráng mà chỉ đậm đặc nỗi sầu chinh phụ

Âu cũng là bởi nhịp điệu mềm mại và giàu tính nữ của thể thơ lục bát và song thất lục bát. Ấy bởi vậy mà các truyện thơ, các khúc âm viết ở hai thể thơ này đều lấy đối tượng người nữ hoặc những câu chuyện tình sướt mướt làm chủ thể. Đương nhiên, đây chỉ là nhận định của riêng tôi, người xưa chọn hình thức thơ ấy có thể vì nhiều nguyên do khác: vì sở thích, vì quen tai, vì cho rằng đó là đại diện cho tinh thần dân tộc…

Tôi vẫn nghĩ đến việc dịch mới “Chinh phụ ngâm khúc” sao cho tác phẩm này thoát khỏi tính nữ của thể song thất lục bát, trước mắt là để thỏa cái sự chán ghét lối vần điệu khiên cưỡng của thể thơ này, sau nữa là hi vọng mình tạo ra một âm hưởng khác gần gũi với nguyên tác hơn, tức là vừa thể hiện được sự bi tráng của chinh phu lại vừa phác được nỗi sầu của chinh phụ. Tôi giữ lại nhịp điệu trong thể cổ phong liên vận mà Đặng Trần Côn sử dụng, lược bớt các điển cố điển tích không cần thiết mà thay bằng ý nghĩa chúng phản ánh để phù hợp với người đọc hiện đại, để “Chinh phụ ngâm khúc” có hình hài của lối thơ tự do không bị gò bó bởi niêm luật.

Ý định này tôi đã ấp ủ từ khi viết phần 1 tiểu thuyết “Thiên địa phong trần”, nhưng lúc ấy tôi xét thấy lối dịch của mình có thể không thích hợp với không khí cổ mà tôi cố gắng xây dựng trong truyện, nên tôi đã chọn một bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm khúc” xuất sắc khác mà ít người biết đến, đó là bản của Nguyễn Khản.

Rốt cục, động cơ khiến tôi buộc phải tự ép mình dịch “Chinh phụ ngâm khúc” lại đến từ việc tôi phải có một bản dịch hiện đại để những người bạn thân thiết của tôi vốn không ưa thích thể thơ dân tộc có thể đọc được, và đồng thời cũng là để làm học liệu môn văn cho con gái tôi đang trong quá trình homeschool.

Trong bản dịch của tôi, tôi vẫn giữ chia đoạn của ông Hoàng Xuân Hãn trong “Chinh phụ ngâm bị khảo”, tôi sẽ đổi tên các tiêu đề để phù hợp với ngôn ngữ của tôi và cách lý giải của tôi về “Chinh phụ ngâm khúc”.

Bản dịch này có thể chưa hoàn hảo và sẽ có chỉnh sửa dần trong tương lai, nhưng tôi vẫn đăng lên đây để độc giả đọc chơi và biết đâu lại chẳng khuyến khích thêm nhiều dịch giả trẻ dịch lại “Chinh phục ngâm khúc” theo lối mới thay vì cứ trói buộc bản thân trong “thể thơ dân tộc”.

Loạn Thế

Gió bụi lộng thời
Nổi chìm phận gái
Vời vợi trời xanh kìa nỗi bởi ai
Trăng Trường Thành âm vang trống trận
Mây Cam Tuyền hắt ánh khói bay
Cửu Trùng chống kiếm mong khởi sự
Nửa đêm ban hịch truyền tướng quân
Thiên hạ thái bình nay đã hết
Từ đây chiến bào lại khoác lên
Sứ trời sớm giục chiêu binh mã
Chàng nặng lòng quân nhẹ việc nhà
Cung tên kìa đeo lưng
Vợ con kìa dứt lòng
Phấp phới cờ bay kìa sầu cất bước
Inh ỏi nhạc quân kìa oán trông mong
Dẫu oán thôi đành xa
Dẫu sầu thôi đành dứt
Chàng mới đôi mươi dòng hào kiệt
Bỏ bút nghiên kìa theo kiếm cung
Quyết đoạt liên thành đền ơn chúa
Nguyện vung gươm báu diệt giặc cuồng
Trượng phu ngàn dặm chí quyết tử
Sớm coi tính mệnh tựa lông hồng
Rời bỏ ấm êm theo chinh chiến
Quất ngựa hò reo ngọn Tây phong

Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
Phong hoả ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề tại yêu
Thê noa hề biệt khuyết
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
Hữu oán hề phân huề
Hữu sầu hề khế khoát
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
Trực bả liên thành hiến minh thánh
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
Tây phong minh tiên xuất Vị kiều

Tiễn biệt

Nước dưới cầu xanh trong quá
Nước xanh vây cỏ xanh xanh
Tiễn chàng đi ôi buồn dằng dặc
Chàng ruổi rong ôi thiếp hận chẳng như ngựa
Chàng lênh đênh ôi thiếp hận chẳng bằng thuyền
Con nước vời xanh xanh
Nào gột hết lòng sầu
Ngọn cỏ dầu xanh xanh
Nào nguôi được tim đau
Lời trao lời ôi chẳng rời tay
Bước mỗi bước ôi còn níu áo
Thiếp nguyện hóa trăng dõi bước chàng
Thiên Sơn lòng chàng bay ngàn dặm
Rượu tràn lệ kìa gươm loang loáng
Ngang ngọn giáo kìa nơi hang hùm
Theo đòi Giới Tử đoạt Lâu Lan
Ngạo nhắm Man Khê noi Mã Viện
Áo chàng đỏ tựa ráng chiều tà
Ngựa chàng trắng tựa sắc tuyết pha
Ngựa phi kìa leng keng
Trống reo kìa đi rồi
Nấn ná mãi chao chẳng rời
Mà bất chợt chao phân ly
Phân ly chao cách biệt
Dùng dằng chao ngóng nhìn
Ngóng nhìn xa xăm kìa cờ bay bay
Xe trước này Bắc Tế Liễu
Ngựa sau này Tây Trường Dương
Xuất chinh xe ngựa đã lên đường
Đứt lòng thiếp liễu dương nào thấu
Bời bời mai rụng âm dần bặt
Xa xa cờ chiến sắc đã mờ
Ngóng mây bay ôi chàng biệt thiếp
Trông núi lại chao thiếp đợi chàng.
Chàng viễn chinh kìa ngoài mưa gió
Thiếp lại về kìa quạnh thâu đêm
Đôi ta cùng ngoái đầu
Mây xanh kìa giăng núi
Chàng trông thiếp ôi Hàm Dương
Thiếp ngóng chàng ôi Tiêu Tương
Khói Hàm Dương chẳng phủ sông Tương
Cùng ngoái cùng không gặp
Xanh xanh mấy ngàn dâu
Mấy ngàn dâu mấy ngần dâu
Lòng chàng ý thiếp đứt ruột sầu

Vị kiều đầu thanh thuỷ câu
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
Tống quân xứ hề tâm du du
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
Bất tẩy thiếp tâm sầu
Thanh thanh hữu phương thảo
bất vong thiếp tâm ưu
Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
Quân xuyên trang phục hồng như hà
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
Kiêu mã hề loan linh
Chinh cổ hề nhân hành
Tu du trung hề đối diện
Khoảnh khắc lý hề phân trình
Phân trình hề hà lương
Bồi hồi hề lộ bàng
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
Tiền xa hề Bắc Tế Liễu,
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
Hành hành chinh bái sắc hà mang
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang.
Lang khứ trình hề mông vũ ngoại
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng
Quy khứ lưỡng hồi cố
Vân thanh hề sơn thương
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang
Mạch thượng tang mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường

Dõi theo

Từ lúc chàng bước vào gió cát
Trăng sáng nào biết chàng nơi nao
Xưa nay ra chiến trận
Vạn dặm chẳng ai về
Gió ào ào ôi thốc dung nhan tiều tụy
Nước sâu sâu ôi e tuấn mã chùn chân
Lính ải tựa trống nằm bãi mộ
Chiến sĩ ôm ngựa ngủ rừng hoang
Sớm nay đất Hán thành Bạch Đăng
Ngày sau cõi Hồ miền Thanh Hải
Miền Thanh Hải núi xanh cao lại thấp
Núi xanh tiếp suối xanh đứt lại liền
Trên núi xanh tuyết phủ dầy
Dưới suối xanh nước ngập đầy
Xót xa chàng chỉ tấm giáp thôi
Nhớ nhung quê cũ sầu chau mặt
Trướng gấm quân vương nào biết đây
Gian nan ai họa vẻ chinh phu
Lo thân chàng chìm nổi xa xôi
Hết đại mạc lại góc bể
Thôn sương điếm lạnh
Hang hùm miệng rắn
Ăn gió nằm sương
Dẫm tuyết uống băng
Lên lầu trông mây chuyển
Bất chợt lòng sầu tuôn
Ải đông nam ngày ấy chàng đi
Nào hay chàng chinh chiến chốn nao
Xưa nay khách chinh phu
Tính mệnh nhẹ cỏ cây
Dưới mũi giáo nhủ mình xốc áo đền ơn chúa
Trong phút giây chẳng nề ngang kích nguyện liều thân
Kỳ Sơn mả cũ trăng mênh mang
Phì Thủy mộ mới gió lạnh lùng
Gió lạnh lùng lồng lộng hồn tử sĩ
Trăng mênh mang soi rõ mặt chinh phu
Mặt chinh phu này ai phác nét
Hồn tử sĩ này ai khóc thương
Thương người chinh chiến non sông cũ
Người đi xa ấy tình đầy vơi
Xưa nay chính chiến ai về nhỉ
Ban Siêu ngày về tóc điểm sương
Lại tưởng chàng ruổi ngựa đường xa
Ba thước kiếm, một yên nhung
Gió thu cỏ héo
Trăng sáng quan san
Đầu ngựa tên reo
Trên thành giáo xếp
Công danh trăm sự rộn
Lao khổ chẳng khắc ngơi

Tự tòng biệt hậu phong sa lũng
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
Cổ lai chinh chiến trường
Vạn lý vô nhân ốc
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
Thanh khê hạ thuỷ một phúc
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác hãn hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
Tự tòng biệt hậu đông nam kiếu
Đông nam tri quân chiến hà đạo
Cổ lai chinh chiến nhân
Tính mệnh khinh như thảo
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
Khả liên tranh đấu cựu giang sơn
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
Tam xích kiếm nhất nhung yên
Thu phong sa thảo
Minh nguyệt quan sơn
Mã đầu minh đích
Thành thượng duyên can
Công danh bách mang lý
Lao khổ vị ưng nhàn

Oán trách

Biết tỏ cùng ai lời suông
Chàng chốn chân trời thiếp tựa song
Tựa song chắc thiếp nay đành phận
Chân trời chàng há lẽ tồn vong
Thư riêng qua lại duyên cá nước
Chịu sao biền biệt chốn nước mây
Phận thiếp ngỡ đâu đời chinh phụ
Thân chàng theo mãi nghiệp vương công
Cớ gì sông Nam sang sông Bắc
Khiến người sầu sớm lại sầu đêm
Người thì phong lưu trang niên thiếu
Kẻ thì khuê nữ tuổi thiếu niên
Chịu sao cùng son trẻ
Vạn dặm lòng nhớ nhung
Lại nhớ cùng chàng trao lời biệt
Vẫn cành dương liễu tiếng hoàng oanh
Hỏi chàng ngày trở lại
Chàng hẹn tiếng cuốc về
Cuốc thì bay mất, oanh đà lão
Xanh liễu bên lầu én gọi nhau
Lại nhớ cùng chàng lúc phân ly
Tuyết mai chưa thấy gió đông về
Hỏi chàng ngày trở lại
Chàng chỉ cánh đào tươi
Hoa đào vẫn cợt ngọn đông phong
Bên sông mai úa lại phù dung
Hẹn cùng ta nơi ấy
Này nhớ chốn Lũng Tây
Ngày qua ôi nào thấy
Lá vàng rụng xuống trâm
Nức nở uổng ngóng trông
Thôn vắng vọng đàn trưa
Hẹn cùng ta nơi ấy
Hẹn bên cầu Hán Dương
Ngày tàn ôi chẳng thấy
Gió núi tốc áo bào
Nức nở uổng ngóng trông
Sông lạnh trào con sóng
Năm xưa gửi tin mong chàng đáp
Năm nay gửi tin mong chàng về
Thấy tin người chẳng thấy
Lác đác liễu rụng phủ rêu mờ
Rêu mờ rêu mờ lại rêu mờ
Mỗi bước loanh quanh vò trăm mối
Năm xưa thư đến thiếp mỏi mòn
Năm nay thư đến thiếp chờ trông
Thư về người chẳng về
Rèm thưa lặng lẽ bóng chiều sang
Bóng chiều bóng chiều lại bóng chiều
Mười hẹn mà nay chín hẹn lầm

Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
Quân thân khởi học vi vương tôn
Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
Khả kham lưỡng niên thiếu
Thiên lý các hàn huyên
Ức tích dữ quân tương biệt thời
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
Vấn quân hà nhật quy
Quân ước đỗ quyên đề
Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi
Ức tích dữ quân tương biệt trung
Tuyết mai do vị thức Ðông phong,
Vấn quân hà nhật quy
Quân chỉ đào hoa hồng
Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ
Lão mai giang thượng hựu phù dung
Dữ ngã ước hà sở
Nãi ước Lũng Tây sầm
Nhật trung hề bất lai
Trụy diệp đâu ngã trâm
Trữ lập không thế khấp
Hoang thôn huyên ngọ cầm
Dữ ngã ước hà sở
Nãi ước Hán Dương kiều
Nhật vãn hề bất lai
Cốc phong xuy ngã bào
Trữ lập không thế khấp
Hàn giang khởi mộ trào
Tích niên ký tín khuyến quân hồi
Kim niên ký tín khuyến quân lai
Tín lai nhân vị lai
Dương hoa linh lạc uỷ thương đài
Thương đài thương đài hựu thương đài
Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
Thư quy nhân vị quy
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
Tà huy tà huy hựu tà huy
Thập ước giai kỳ cửu độ vi

Gửi gắm

Ngày qua ngày lại thêm ngày nữa
Nào hay sen đà nở ba lần
Cay đắng ải mờ người lận đận
Cay đắng vạn dặm cúc xa xăm
Cúc biên cương ai chẳng người thân thích
Khách chinh phu ai không kẻ ngóng chờ
Có mẹ cha đành lòng chia biệt
Có vợ yêu đành cậy trông nom
Song thân tóc đã điểm sương mai
Con thơ tuổi còn đương bú mớm
Song thân ơ tựa cửa
Con thơ ơ khóc đòi
Phụng mẹ cha ôi thiếp thay chàng
Dạy con thơ ôi thiếp là cha
Mẹ cha con nhỏ một thân
Lòng đau nhung nhớ xiết bao lần
Nhớ chàng ngày cũ kìa đã qua
Nhớ chàng năm mới kìa sắp tàn
Chàng nổi chìm hai năm, ba năm lại bốn năm
Thiếp nhớ nhung trăm mối ngàn mối rồi vạn mối
Ước ao gần gang tấc
Thiếp kể sầu miên man
Này đây trâm cung Hán
Thuở mới kết đôi đã vội tan
Cậy người gửi tình quân
Tỏ lòng này nhung nhớ
Này đâyy gương lầu Tần
Thưở cùng chàng đôi bóng ái ân
Cậy ai gửi tình quân
Soi thiếp thân cô lẻ
Này đây lưỡi câu bạc
Trao tay lúc động phòng
Cậy ai gửi tình quân
Gói ghém lòng thương nhớ
Này đây cây lược ngọc
Thơ ấu vẫn đùa vui
Cây ai gửi tình quân
Nâng niu ngày cách mặt.

Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
Hữu thân an khả tạm tương ly
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
Quân hữu lão thân mấn như sương
Quân hữu nhi lang niên thả nhụ
Lão thân hề ỷ môn
Nhi lang hề đãi bộ
Cung thân xan hề thiếp vi nam
Khoá tử thư hề thiếp vi phụ
Cung thân khoá tử thử nhất thân
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
Tư quân kim niên hề hựu mộ
Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
An đắc tại quân biên
Tố thiếp trung trường khổ
Thiếp hữu Hán cung thoa
Tằng thị giá thời tương tống lai
Bằng thuỳ ký quân tử
Biểu thiếp tương tư hoài
Thiếp hữu Tần lâu kính
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
Bằng thuỳ ký quân tử
Chiếu thiếp kim cô lánh
Thiếp hữu câu chỉ ngân
Thủ trung thời tương thân
Bằng thuỳ ký quân tử
Vi vật ngụ ân cần
Thiếp hữu tao đầu ngọc
Anh nhi niên sở lộng
Bằng thuỳ ký quân tử
Tha hương hạnh trân trọng

Đợi chờ

Năm dồn tin tới lại tin đi
Năm nay vắng bặt tin chẳng đến
Ngóng nhạn uổng mong lụa thư đề
Nghe sương vội đan áo bông mềm
Gió thu sao chở cánh hồng bay
Ngoài trời mưa táp lại tuyết lay
Tuyết lạnh chàng ôi hổ trướng
Mưa giá chàng ôi màn lang
Lạnh giá hoài cơ cực
Trời cao có thương cùng
Thơ đề gấm lụa gói lại mở
Tiền gieo quẻ bói tin rồi ngờ
Hoàng hôn le lói mái hiên người lẻ bóng
Trăng khuya vằng vặc chăn đơn tóc xõa mềm
Chẳng như phường say rượu la đà thân túy lúy
Chẳng như kẻ mê đắm hồ đồ trí ngu si
Trâm lệch tóc rơi bơ phờ rối
Váy trễ eo mềm mòn mỏi kham
Ngày lặng lẽ tường trưa bước ngả nghiêng
Chiều se sẽ rèm Tương cuốn lưa thưa
Ngoài rèm lén ngóng hỷ thước vầng nhật treo cành
Trong rèm ngồi thẩn nỗi lòng kể với đèn khuya
Đèn tỏ hay chẳng tỏ
Thiếp sầu chỉ riêng sầu

Tích niên âm tín hữu lai thời
Kim niên âm hy tín diệc hy
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
Văn sương mạn tự chế miên y
Tây phong dục ký vô hồng tiện
Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
Tuyết hàn y hề hổ trướng
Vũ lãnh y hề lang vi
Hàn lãnh ban ban khổ
Thiên ngoại khả liên y
Cẩm tự đề thi phong cánh triển
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
Kỷ độ hoàng hôn thời trùng hiên nhân độc lập
Kỷ hồi minh nguyệt dạ đơn chẩm mấn tà khi
Bất quan trầm dữ hàm hôn hôn nhân tự tuý
Bất quan ngu dữ nọa mộng mộng ý như si
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
Đăng tri nhược vô tri
Thiếp bi chỉ tự bi

Sầu

Sầu lại sầu ôi khôn tả xiết
Đèn chong bóng chiếc nặng buồn thương
Eo óc gà kêu năm canh vọng
Phơ phất bóng hòe rủ tám phương
Sầu như biển
Khắc tựa năm
Gượng thắp trầm hương hồn tan loãng khói sương
Gương soi gương lệ ngọc lã chã cỏ hoa
Gượng ôm đàn tâm động chùng dây loan phượng
Gượng gẩy điệu bi thương đứt phím uyên ương
Mượn ngọn đông phong gửi tấm lòng
Ngàn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dầu chẳng đến
Nhớ chàng dằng dặc ôi đường vô tận
Vô tận chẳng thể đi
Trông chàng vời vợi ôi nhớ miên man
Ngóng người xa xăm lòng đau xót
Lá thu xanh điểm bạc
Dế rỉ rả mưa buông
Sương giáng rụng ôi dương liễu
Mưa cưa rơi ôi ngô đồng
Chim bay lạc gió
Sương giăng mịt mùng
Trùng rên lạnh vách
Chuông sớm điểm xa
Dế đêm đếm mưa rơi
Tàu tiêu cơn gió nổi
Gió xé song thưa luồn rét mướt
Trăng động rèm hoa bóng lung lay
Trăng soi hoa sáng lên sắc trắng
Hoa mượn trăng tươi khoe vẻ hồng
Trăng hoa hoa trăng kìa bóng lồng bóng
Trước hoa dưới nguyệt kìa buồn lại buồn.

Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
Đăng hoa nhân ảnh tổng kham liên
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
Phi phất hoè âm độ bát chuyên
Sầu tự hải
Khắc như niên
Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
Cưỡng lâm kính ngọc cân truỵ lăng hoa tiền
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền
Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên
Yên Nhiên vị năng truyền
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên
Thiên viễn vị dị thông
Ức quân du du hề tứ hà cùng
Hoài nhân xứ thương tâm hung
Thụ diệp thanh sương lý
Cùng thanh tế vũ trung
Sương phủ tàn hề dương liễu
Vũ cứ tổn hề ngô đồng
Điểu phản cao thung
Lộ há đê tùng
Hàn viên hậu trùng
Viễn tự hiểu chung
Tất suất sổ thanh vũ
Ba tiêu nhất viện phong
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung.

Rã rời

Ngàn lần não vạn sự rầu
Biếng nữ công thẹn thùng chẳng dệt gấm uyên ương
Trễ phụ xảo ngại ngùng sao thêu khăn hồ điệp
Dung nhan biếng lười tô điểm phấn
Nói năng hờ hững tựa song thưa
Song thưa, song thưa lại song thưa
Chàng xa xôi thôi đẹp vì ai
Đẹp vì ai thôi uổng má hồng
Chàng xa xôi ôi cách ngàn trùng
Há như nàng Chức lạnh lẽo khóc bến sông Ngân
Há như Hằng Nga tiều tụy lặng nơi cung Quảng
Sầu chất chồng thành gối
Buồn nung nấu làm cơm
Mượn rượu tan sầu mà rượu nhạt sầu thêm nặng
Mượn hoa khuây muộn mà hoa héo muộn chẳng vơi
Sầu muộn lỡ lầm càng sầu muộn
Muộn sầu tuôn chảy thác cửu tuyền
Gõ sênh ngọc ôi không thành tiếng
So dây bạc ôi chẳng nỡ đàn
Mơ chốn xa kìa đường gian nan
Nhớ chinh phu kìa túi trễ vai
Quốc kêu lạc tiếng lệ chứa chan
Trống tiều nện nhịp đứt buồng gan
Má hồng phai nhạt dung nhan héo
Bất chợt xót xa phận nhớ chồng

Thiên ban lãn vạn sự dung
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
Dung trang đối hiểu không thi phấn
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
Lang quân khứ hề cách trùng quan
Hà thí Thiên đế tôn lãnh lạc khấp Ngân Chử
Hà thí Hằng Nga phụ thê lương tọa Quảng Hàn
Tạ sầu hề vi chẩm
Chử muộn hề vi xan
Dục tương tửu chế sầu sầu trọng tửu vô lực
Dục tương hoa giải muộn muộn áp hoa vô nhan
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn
Tư viễn tái hề hành lộ nan
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
Quyên thanh đề lạc quan tình lệ
Tiều cổ xao tàn đái bại can
Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan

Mộng

Nếm chua chát ôi thêm cay đắng
Chua cay này há bởi chàng ư
Vì chàng ôi hàng lệ thiếp rơi
Vì chàng ôi thân thiếp lẻ loi
Thân thiếp chẳng theo chàng dưới trướng
Lệ thiếp khăn chàng chẳng giọt vương
Chỉ hồn mộng nào ngại ngần
Tìm chàng đêm đêm vượt Giang Tân
Tìm chàng này chốn Dương Đài
Gặp chàng này bến sông Tương
Mơ được cùng chàng vui hội ngộ
Nào phải gối đơn mộng ngày xuân
Thiếp hận thân này không là mộng
Lũng Thủy, Hàm Quan được bên chàng
Mộng đi bàng hoàng đêm sực tỉnh
Mộng về ngờ ngợ lẽ giả chân
Chỉ nỗi lòng nhung nhớ khôn nguôi
Nguyện theo chàng khắc khắc chẳng rời
Lòng chẳng rời nhưng nào thấy mặt
Lên lầu cao ngóng bóng xe qua
Ngóng chàng mà chẳng gặp
Bãi sông bèo dạt trôi
Cỏ hoang xanh chân mây
Ruộng dâu tiếp màu trời
Cõi nam mờ bụi màu chinh chiến
Vầng nhật xuống đồng bóng cò đơn
Ngóng chàng nào thấy mặt
Đường xa xiêu mái đình
Núi Thục xanh chất ngất
Ngô đồng khuất tầng mây
Đất bắc ruộng đồng hoang lạnh quá
Lâm thâm mưa phủ sáo hắt hiu
Ngóng chàng mà chẳng gặp
Non sâu lá rụng đầy
Trĩ hoang kêu khắc khoải
Uốn điệu buồn dưới mai
Mé đông khói sương sầu phảng phất
Gió thu lay nhẹ tiếng chim buồn
Ngóng chàng mà chẳng gặp
Dòng nước lượn vòng quanh
Tầng không vết nhạn bay
Thuyền xa đà cập bến
Góc tây rừng tùng nối bãi lau
Người đi thêm cách ngọn cù lao
Trông mòn trời đất chẳng thấy đâu
Lầu cao lên xuống nhọc lòng rầu
Khối mây khuất nẻo hồn nhung nhớ
Hỏi cõi Ngọc quan người nơi nao.

Tư vị toan hề toan cánh tân
Toan tân đoan đích vị lương nhân
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
Vị lương nhân hề chích thiếp thân
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
Tầm quân hề Dương Đài lộ
Hội quân hề Tương thuỷ tân
Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân.
Thử thân phản hận bất như mộng
Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
Tâm bất ly quân vị kiến quân,
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân
Vọng quân hà sở kiến
Giang châu mãn bạch tần
Yên thảo phi thanh lũ
Tần tang nhiễm lục vân
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
Lạc nhật bình sa lộ nhất quần
Vọng quân hà sở kiến
Quan lộ đoản trường đình
Vân gian Ngô thọ ám
Thiên tế Thục sơn thanh
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
Vọng quân hà sở kiến
Không sơn diệp tố đôi
Tự phi thanh dã trĩ
Tự vũ cách giang mai
Đông khứ yên lam thảm bất khai
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai
Vọng quân hà sở kiến
Hà thủy khúc như câu
Trường không sổ điểm nhạn,
Viễn phố nhất quy châu
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
Hành nhân vi một cách thương châu
Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
Đống vân trở tận tương tư nhãn
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu.

Giận

Hận chẳng rút đất ngắn tày gang
Hận chẳng gieo khăn hóa nhịp cầu
Lòng này đà hóa đá
Lên lầu mà lệ khô
Quay đầu lặng ngắm màu dương liễu
Thà chàng đừng mê mải phong hầu
Nào ngờ chia biệt ngàn dặm vắng
Lòng chàng há với thiếp cùng đau
Lòng chàng ví được đồng tâm thiếp,
Thiếp còn oán hận được chi đâu
Tâm thiếp tựa hoa vọng vầng dương
Chỉ e lòng chàng là vệt nắng
Vệt nắng chợt lóe không quay lại
Hoa bởi nắng đi sắc hoe vàng
Hoa vàng hé cười vì ai nhỉ
Vệt nắng chẳng thêm chút đoái thương
Hoa vàng tủi phận tàn đợi nắng
Hoa vàng úa kìa rũ bên tường

Hận vô trường phòng súc địa thuật
Hận vô tiên tử trịch cân phù
Hữu tâm thành hóa thạch
Vô lệ khả đăng lâu
Hồi thủ trường đề dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Bất thức ly gia thiên lý ngoại
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu
Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự
Thiếp diệc ư quân hà oán vưu
Thiếp tâm như hoa thường hướng dương
Chỉ phạ quân tâm như lưu quang
Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu
Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng
Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu
Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
Hoàng hoa khước vi lưu quang lão
Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường.

Thiên tượng

Hoa rụng đến nay mấy mùa sương
Sân lan ôi biếng dọn
Bèo nước ôi len hương
Vén áo bước tiền đường
Ngước mắt trông thiên tượng
Bóng mây thời phảng phất
Bắc Đẩu chợt xế ngang
Sông Ngân trôi mờ tỏ
Sao Sâm chuyển hiện tàng
Trăng soi kìa giường trống
Gió nổi kìa vách xiêu
Tháng năm tàn dáng ngọc
Chàng cứ mãi tha phương
Xưa ta như hình bóng
Nay cách trở Sâm Thương
Mây biên ải phủ mờ bóng ngựa
Gót hiên nhà kín vết rêu phong
Hiên nhà gió xuân đà lặng ngắt
Càng thương nhỡ nhàng sắc xuân thì
Đẹp thay lúc mẫu đơn vàng tía nghinh gió đông
Đẹp thay thuở bên cầu Ngưu Chức ngắm trăng sáng
Hôm qua thiếu nữ chửa cài trâm
Năm nay chàng rể đã động phòng
Chỉ thương trăng rọi căn phòng trống
Đằng đẵng ngóng trông ngày sáng tươi
Ngày tươi sáng ôi chợt đi mau
Cõi người xuân sắc cũng qua nhanh
Huống chi sầu xuân chưa tan buồn thu đà đến
Huống chi hội ngộ còn vương ly biệt nhuốm sầu
Biệt ly thu đến lòng vò xé
Xanh xanh dáng liễu gắng gỏi chi
Ai kẻ xót lệ sầu bi
Chỉ e chẳng ai xót tóc Văn Quân điểm bạc
Chỉ lo chẳng ai oán vẻ Phan lang mờ phai
Tiếc nuối nào để chi
Nhan sắc còn tươi màu hé nụ
Oán than nào để chi
Bóng nắng buông rơi chẳng quay về
Trách phận mỏng uổng tháng năm
Rối bời tơ tóc điểm màu sương
Lại nhớ gác hương mơ gặp gỡ
Vương vất lầu hoa dải lụa thơm
Hận trời chẳng thuận lòng người
Gập ghềnh thế sự thây phó mặc
Gập ghềnh gập ghềnh biết sao đang
Xót thiếp thay ôi xót chàng thay!

Hoa lạc như kim kinh kỷ sương
Đình lan hề dĩ trích
Giang tảo hề hựu phương
Nhiếp y bộ tiền đường
Ngưỡng mục quan thiên chương
Tiêm vân thời phảng phất
Bắc đẩu hốt đê ngang
Hà thuỷ phiên minh diệt
Sâm triền sạ hiện tàng
Nguyệt chiếu hề ngã sàng
Phong xuy hề ngã tường
Ngọc nhan tuỳ niên tước
Trượng phu do tha phương
Tích vi hình dữ ảnh
Kim vi Sâm dữ Thương
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang
Lang nội xuân phong nhật tương yết
Khả liên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong
Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt
Tạc nhật vị kê Tây gia nương
Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến
Khả linh thố thủ nhất không phòng
Niên niên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết hề hốt như thoa
Nhân thế thanh xuân dung dị qua
Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục
Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa
Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma
Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà
Không thán tích lệ tư ta
Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích
Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta
Thán tích hà dĩ vi
Nhan sắc do hồng như nộn hoa
Tư ta hà dĩ vi
Quang âm nhất trịch vô hồi qua
Tư mệnh bạc tích niên hoa
Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà
Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm
Hoa lâu thượng ký giải hương la
Hận thiên bất dữ nhân phương tiện
Để sự đáo kim thành khảm kha
Khảm kha khảm kha tri nại hà
Vị thiếp ta hề vị quân ta

Ước nguyện

Chàng chẳng thấy đồng hoang cặp uyên ương
Luyến lưu sao nỡ phân hai đường
Lại chẳng thấy bên sông đôi én liệng
Bạc đầu quyến luyến nào chia xa
Ấy chim chóc vô tình
Nâng cánh dìu nhau một kiếp trôi
Ấy sâu bọ vô tri
Tuổi già ập đến chẳng chia lìa
Liễu mềm bên dậu vấn vương dây
Sen thanh đầm biếc quấn quít cành
Sóc thỏ đến ngựa lừa
Tầm gửi đến nấm la
Đều suốt kiếp chẳng rời xa
Xót thương thay giống hữu tình
Ước sao trên trời làm chim kết cánh
Dưới đất làm cây liền cành
Thà chết mà hội ngộ
Hơn sống cảnh phân ly
Dẫu chết vui gặp gỡ
Sao bằng được gần nhau
Ước sao chàng mãi chẳng già
Thiếp còn xuân sắc
Nguyện làm bóng ôi luôn kề cận
Chàng lên đường ôi thiếp theo chân
Ước cùng chàng thỏa nguyện phong hầu
Lòng báo quốc quyết mãi sắt son
Nguyện cùng chàng bảo vệ nước non
Đói tìm nuốt trọn đầu Nhục Chi
Khát tìm uống cạn máu Thiền Vu

Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương
Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương
Hựu bất kiến lương giang song yến yến
Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến
Kiêm kiêm dã vô tình
Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh
Cùng cùng dã vô tri
Tịnh khu đáo lão bất tương vi
Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ
Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời
Phụ quyết hề cự hư
Bão la hề thố ty
Hà nhân sinh chi tương vi
Ta vật loại chi như tư
An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu
Tại địa vi liên lý chi
Ninh cam tử tương kiến
Bất nhẫn sinh tương ly
Tuy nhiên tử tương kiến
Hạt nhược sinh tương tuỳ
An đắc quân vô đáo lão nhật
Thiếp thường thiếu niên
Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên
Quân hữu hành hề ảnh bất viễn
Quân y quang hề thiếp như nguyện
Nguyện quân hứa quốc tâm như đan
Nguyện quân tí dân thân như thiết
Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu
Khát lai ẫm hạ Thiền Vu huyết.

Nguyện thanh bình

Vòng đao kiếm nào mong tìm sống
Trời xanh sẵn ý giúp anh hùng
Giúp anh hùng trăm trận thắng
Tứ mã ruổi dài Quan Đông lặng
Quan Đông Quan Bắc tên thôi bay
Đầu non cuối núi cung treo đầy
Trăng ải xa khuất cờ chiến thắng
Gió biên thùy tạt bóng khải hoàn
Đề danh kìa đá Yên Nhiên
Dâng công kìa cung Vị Ương
Cung Vị Ương kìa thuận thiên triều
Mượn sông Ngân kìa rửa đao cung
Buông kiếm vang ca khúc thái bình
Nhạc phủ ca truyền tới muôn dân
Gác Lăng Yên Thúc Bảo họ Tần
Đài Kì Lân Phiêu Diêu họ Hoắc
Trời đất rộng dài ghi công trạng
Vợ con vui vầy tước lộc ban
Dẫu sầu thôi cũng qua
Thỏa nguyện kìa đang tới
Thiếp nào như nàng Tô si ngốc
Chàng há phải Tô Tần lao đao
Ngày về rạng rỡ hoàng kim ấn
Thấu rõ thời gian nào quay lại
Xin vì chàng ôi cởi chiến bào
Xin vì chàng ôi nâng chén đào
Vì chàng chải tóc vấn hình mây
Vì chàng điểm trang màu bạch ngọc
Ôm chàng trông ôi dòng lệ cũ
Kể chàng nghe ôi điệu tình xưa
Điệu tình xưa ôi nay đã đổi
Lời mới chuyện xưa này cùng nâng chén
Rót rượu ta thong dong
Ca tràn ta liên miên
Rót lại rót này rượu bồ đào
Ca lại ca này thiên xích thố
Nguyện say muôn chén này cùng hát ca
Cùng chàng nguyên vẹn này mối duyên xưa
Nguyện ước kết đôi đến bạc đầu
Hoán đổi công danh bù xa cách
Yêu thương đùm bọc lúc thanh bình
Năm tháng thanh bình gác lại giáo gươm
Nào đâu còn thấy lệ ướt đầm
Vừa gặp gỡ đã nhen lời biệt
Thương thay trượng phu phải đảm đương.

Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung
Lão thiên trước ý hộ anh hùng
Hộ anh hùng bách chiến công
Trường khu tứ mã tịnh quan Ðông
Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn,
Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung
Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt
Khải ca tướng sĩ bối biên phong
Lặc thi hề Yên Nhiên thạch
Hiến quắc hề Vị Ương cung
Vị Ương cung hề hướng thiên triều
Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung
Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng
Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao
Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu
Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu
Thiên trường địa cửu mao thư khoán
Tử ấm thê phong tước lộc tiêu
Hữu sầu hề thử nhật
Đắc ý hề lai thời
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
Khẳng học đương niên bất há ky
Nguyện vi quân hề giải chinh y
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
Vi quân trang điểm ngọc yên chi
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
Tố quân thính hề cựu tình từ
Cựu tình từ hề hoán tân liên
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
Thiển châm hề mạn mạn
Đê xướng hề liên liên
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
Giao kỉnh thành song đáo lão thiên
Thường liễu công danh ly biệt trái
Tương liên tương thủ thái bình niên
Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí
Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
Tương hội chi kỳ tương ký ngôn
Ta hồ trượng phu đương như thị.

Home 2021 / page 2

Mùa dã cổ của Hà Thủy Nguyên – mùa của cơn say tinh thần

Trong một xã hội ưa hình thức, tập thơ “Mùa dã cổ” của Hà Thủy Nguyên là một sự lạc điệu. Người ta đua nhau viết tiểu thuyết, Nguyên lại làm thơ. Người Ta đua nhau làm thơ hậu hiện đại, Nguyên lại tìm về những biểu tượng cổ xưa. Người ta đau đớn một cách đắc chí trong nghệ thuật còn Nguyên cố để phiêu lãng mà những vương vấn nợ trần gian vẫn còn quá nhiều. Bởi vậy, sự xuất hiện của “Mùa dã cổ” không ồn ào nhưng sâu lắng. Hà Thủy Nguyên đã tách biệt dần khỏi xu thế, tách biệt khỏi hình mẫu “nhà văn trẻ” của hơn 10 năm trước khi “Điệu nhạc trần gian” ra đời.

Tôi đã có dịp nói chuyện với một số bạn trẻ đọc tập thơ “Mùa dã cổ” của Hà Thủy Nguyên. Họ đều là những người đã từng đọc các bài viết của Nguyên trên Book Hunter, bao gồm cả tiểu luận, tản văn và thơ. Các độc giả ấy luôn cảm thấy một sức nặng về tinh thần và tri thức ẩn chứa trong các tác phẩm. Đặc biệt là thơ. Các độc giả không thể ngay một lúc tiếp nhận cả tập thơ, chỉ có thể đọc một hai bài trong một lần đọc. Bởi mỗi bài thơ đều chứa những ẩn ngữ, và mỗi ẩn ngữ đều hàm chứa các thực tại. Khi đọc một bài thơ, tâm trí người đọc bị xâm chiếm bởi những thực tại ấy. Dường như, Hà Thủy Nguyên chủ động trong trong sự xâm chiếm tâm trí này.

Trong bài tựa của tập thơ có tên “Người thơ từ mùa dã cổ” có câu:

Mùa Dã cổ như trận cuồng phong từ Cực Bắc xa xôi ùa tới, thổi bạt những nền móng khuôn thước của nhiều thế kỷ tái chế…

Mùa Dã cổ phi thực và siêu tưởng…

Hỡi gió! Hãy nổi lên…

Lùa hương băng thanh mùa Dã cổ

Hỡi gió! Xoáy tung vũ trụ! Vận hành trăng sao theo nhịp thi ca!

Thi ca bắt nhịp mùa Dã cổ

Ai đi khinh nhẹ bước thiên hà

Ở đây, cơn gió từ Cực Bắc là ẩn dụ cho sức mạnh tinh thần từ tập thơ. Tại sao là gió từ Cực Bắc? Hà Thủy Nguyên có một niềm thích thú bí ẩn với Nieztches. Trong tác phẩm “Kẻ phản Kito” của mình, ông có nhắc đến “Những công dân xứ HyperBoreanus”, nghĩa là những người dân từ xứ sở của thần gió Bắc, những con người cao quý như các vị thần với các giá trị tinh thần cao cả. Hà Thủy Nguyên hẳn đã có hàm ý này khi sử dụng hình ảnh cơn gió từ cực Bắc, và qua đó nhà thơ tuyên bố sự trở về của mùa Dã cổ với thế giới là sự trở về của những con người có tinh thần cao cả. Bởi thế, Mùa Dã cổ “phi thực và siêu tưởng”, nó vượt khỏi những cảm xúc bình thường của con người, nó là thế giới của con người tinh thần, của cái siêu thức. Cõi giới tinh thần ấy tràn ngập các biểu tượng, chồng chéo các thực tại và để tìm được con người thực của mình, nhà thơ không có cách nào khác ngoài việc ung dung lướt qua tất cả. Chặng đường tinh thần ấy là đại diện cho những người trẻ đã vứt bỏ cuộc chiến bên ngoài để đi vào bên trong, và họ cũng phải đối mặt với trùng trùng gian nan.

 

Tập thơ có bốn phần: Phiêu – Mỏi – Tru – Say, chính là bốn chặng đường tinh thần mà Hà Thủy Nguyên đã đi qua trong quãng thời gian từ 2010 đến 2015. Được biết đây là 5 năm đầy biến động với của nhà thơ. Từ bỏ những cơ hội việc làm, tránh xa truyền thông chính thống, luyện tập theo nhiều trường phái thiền và tâm linh, để rồi cuối cùng mở ra Book Hunter với một cộng đồng những người trẻ yêu thích tri thức. Phần lớn các bài thơ trong tập “Mùa dã cổ” được sáng tác vào quãng thời gian thành lập và đặt nền móng cho Book Hunter. Chỉ có các bài “Lạc loài”, Ta là gió”, “Chiều”, “Đêm”, “Chán”, “Còn lại”, “Tiễn thu” là được sáng tác trước đó. Khi là thủ lĩnh tinh thần của Book Hunter và ước ao một cuộc thay đổi, một cuộc thức tỉnh tinh thần ở giới trẻ, Hà Thủy Nguyên đã mở dần phạm vi cuộc chiến tinh thần của mình thành cuộc chiến với thực tại bên ngoài. Hay nói một cách khác, những biểu tượng và những thực tại bên trong tâm trí của nhà thơ là một hệ thống phản chiếu của thực tại bên ngoài mà nhà thơ phải vượt qua chúng. Những lời lẽ kêu gọi, như một sự đánh thức với thế gian được nhắc đến nhiều lần trong tập thơ, không hẳn là lời kêu gọi cộng đồng, mà chỉ đơn thuần là sự đánh thức chính mình.

Phần “Phiêu” là phần mở đầu tập thơ, gồm sáu bài và hai câu thơ đề lựa: “Khi vạn vật sa lầy/Khi linh hồn đói khát”. Như vậy có thể hiểu “phiêu” là sự vượt thoát khỏi thực trạng đang diễn ra trong cuộc sống. Đó là cuộc sống ở thế kỷ 21 khi đám đông ngày càng trở nên điên loạn và lòng tham trở thành kim chỉ nam dẫn hướng, nhưng tất cả đều được mạ vàng trong cái vỏ đạo đức. Tác giả đã “phiêu” bằng cách chọn cho mình một định mệnh “lạc loài”:

Nếu ta là Satan

Ta lạc loài giữa một bầy thiên sứ

Nếu ta là thiên sứ

Ta lạc loài giữa một lũ điên

Nếu ta là người điên

Ta lạc loài giữa cõi đời quá tỉnh

Trích bài "Lạc Loài"

Trong trạng thái “Phiêu” ấy, Hà Thủy Nguyên khẳng định vị trí độc nhất của mình, vị trí tách biệt khỏi cộng đồng, vị trí của “cõi hỗn mang”. Ở đây, “cõi hỗn mang” chính là thế giới tinh thần mênh mông không giới hạn, mà để bước vào cần phải “đạp tung những căn phòng quá chật”, cần “đốt hết” “những bộ áo quần” của “nhân gian lừa dối”, cần “điên” hết mình để “đánh thức trái tim bị giam hãm ngàn năm”. “Lạc loài” là bài thơ đầu tiên của tập thơ, và cũng là chìa khóa để độc giả tiếp cận với tập thơ. Nếu không có chung cái nhìn với nhà thơ trong bài “Lạc loài”, không có cái sự tách biệt, không có cái điên hết mình ấy, chúng ta khó mà chấp nhận được toàn bộ thế giới thơ trong “Mùa dã cổ.

Cũng như “Lạc loài”, các bài khác trong “Phiêu” là sự mở đầu cho cuộc mò tìm bản thân. Chân ngã của một người luôn lạc giữa một bể mênh mông những ảo tưởng do cộng đồng mang lại. Mỗi ảo tưởng là một thực tại, vì thế chân ngã bị xé mảnh và vá víu với rất nhiều thực tại. Đi tìm chân ngã là chủ đề quan trọng trong những tác phẩm mang tính tinh thần.

Rumi, một bậc thầy Sufi của văn hóa Islam thế kỷ 13 có viết:

Cơn say bắt đầu nơi tửu quán

Khi tôi trở về nơi tôi ra đi

Tôi sẽ thức tỉnh. Còn giờ đây,

Tôi khác nào chú chim tới từ xứ lạ bị nhốt trong lồng

Ngày tươi sáng sẽ tới khi tôi cất cánh

Nhưng giờ đây kẻ nào đang nghe bằng chính đôi tai tôi?

Kẻ nào đang nói bằng chính miệng của tôi?

Kẻ nào đang nhìn bằng mắt tôi? Hỡi linh hồn thực sự, ngươi là gì?

Tôi chẳng thể ngừng tự vấn

Câu trả lời, giá như tôi từng được nhâm nhi,

Tôi đã có thể phá tan cái lồng giam hãm

Tôi không tự nguyện tới đây, nên tôi chẳng thể rời đi bằng cách đó

Kẻ nào mang tôi tới đây sẽ đưa tôi trở về.

“Lời tôi, ai đã nói” – Rumi tinh tuyệt/ Lê Duy Nam dịch từ bản tiếng Anh trong cuốn The Essential Rumi, tác giả Coleman Barks do HarperOne tái bản năm 2004

Hà Thủy Nguyên cũng không ít lần tự vấn về định mệnh của mình, về chân ngã thực sự sau tất cả mọi suy nghĩ, tình cảm và hành vi. Trong truyện ngắn “Trong sương mù” (Tập truyện ngắn “Bên kia cánh cửa”, NXB Lao động, 2013), Hà Thủy Nguyên đã diễn tả một thế giới tâm trí con người mà mỗi người là một tập hợp các khuôn mặt khác nhau và chỉ có thể bay lên thật cao thì chân ngã mới hiển lộ. Còn trong tập thơ “Mùa dã cổ”, tác giả không bay thật cao nữa, mà là thái độ đi xuyên tất cả, chấp nhận tất cả: nào là “đáy hỗn mang”(“Lạc loài”); nào là những “kiếp cầm tù” , “góc sân”, “trói buộc” (“Ta là gió”); sự ngơ ngác trong cô đơn (“Chiều…”); sự hư vô (“Đêm”); ngày tận thế (“Cánh cung”); “trùng trùng lớp lớp các giấc mơ” (“Những tên đầy tớ của định mệnh”). Một loạt các câu hỏi và câu trả lời mơ hồ được đặt ra:

“Ai đi tìm ai?

Ta đi tìm ai?

Có một bóng đêm đi tìm bóng đêm”

(“Đêm”)

“Em chờ đợi ngày tận thế

Chờ đợi Anh – cơn hồng thủy

Cùng trút bỏ những vai diễn trong tiền kiếp

Nguyên vẹn Anh – Nguyên vẹn Em

Nhìn Trái Đất quay cuồng”

(“Cánh cung”)

Nhưng sau tất cả, chân ngã dường như không thể “định hình”, chân ngã là “vô cấu trúc”, chân ngã luôn cô độc thế nên có thể “gia nhập mọi cuộc chơi/nhưng không thuộc về đâu cả…”. Đó là tứ thơ chính trong bài “Những tên đầy tớ của định mệnh”, như một sự khép lại của chuỗi tự vấn không lời giải đáp.

Càng đi sâu vào cõi tinh thần, ta sẽ càng đến gần với hư vô, bởi chân ngã là vô định hình, bởi thế nhiều người đã trở lại thế giới đời thường. Nhưng nhìn đời thường bằng con mắt của người đã đến tận cõi hư vô không phải chuyện dễ. Đó là chủ đề chính của phần “Mỏi”. Các bài trong “Mỏi” thường là một sự phản chiếu giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài. Từ bên trong nhìn ra bên ngoài, tác giả thấy tất thảy đều chán ngán, đều chỉ là những vết mờ hư ảo.

Ta cũng chán cả những cơn say, vì chẳng cơn say nào có thể xóa nổi những hư ảnh của cõi đời tầm thường nhạt nhẽo cứ hiển hiện trước mắt

Không còn cảm thấy đau!

Không còn cảm thấy vui!

Không còn cảm thấy cuồng say nhiệt huyết…

Có khi nào ta chỉ còn là một đống tro tàn nguội lạnh của một thế giới bị thiêu rụi…

… sau ngày tận thế!”

(“Chán”)

“Thế giới lập thể

Cắt mặt người

Nhiều mảnh ghép không thể thành hình

Ta chỉ là một đống tử thi lai ghép trong bộ đồ chơi của đấng sáng thế”

(“Trong gương”)

 

“Đâu mất rồi tình yêu

Đâu mất rồi tiếng cười

Đâu mất rồi niềm hứng khởi

Bầu nhiệt huyết đông cứng

Rồi lại rã rời

Rã rời

Rời

Một đống rác vĩ đại bị nghiền nát…

… đợi ngày tái chế”

(“Mất ngủ”)

Nhưng chính trong sự tột cùng của hư vô và hoang mang ấy, một thế giới khác lại bừng sáng. Thay vì tách biệt với thế giới bên ngoài, Hà Thủy Nguyên bắt đầu chạm vào thế giới bằng toàn bộ tinh thần mình, nên cái chạm ấy thật hơn:

“Vạn vật đều hư vô

Một cái chạm vủa anh với em

Lại là điều thật nhất”

(“Đêm nay”)

“Đôi cánh đã bỏ đi rất xa

Có nghe chăng?

Rất xa…xa…xa rồi…

Chỉ tôi còn ở lại…

Gom nắng, gom mưa

Thả rơi trên những phím đàn…”

(“Còn lại”)

Và bắt đầu từ đây, thơ của Hà Thủy Nguyên thoát khỏi gam màu u ám, bắt đầu chuyển từ lập thể sang siêu thực với hai phần “Tru” và “Say”. Nếu “Tru” là lời đánh thức chân ngã vô định hình bên trong từ “Say” là sự biến hóa khôn cùng của chân ngã ấy.

 

 

Phần “Tru” chỉ có bốn bài, nhưng bài nào cũng như những đoạn “Phúc âm”. “Phúc âm” là cách nói trong niềm tin Kito giáo để ám chỉ về tin tức vui mừng cho sự tái sinh của Chúa. Ở “Mùa dã cổ” không phải là sự tái sinh của Chúa Jesus mà là sự tái sinh của chân ngã, của một Hà Thủy Nguyên thực sự, không phải Hà Thủy Nguyên chúng ta đã từng biết. “Phúc âm” ấy báo hiệu như một tiếng sói tru:

Tru lên: Thực tại: Máu

Trăng: Máu

Rừng: Máu

Đô thành: Máu

Miền vô thức thẫm máu

Những cánh hoa trắng muối xuôi trên dòng sông thanh đỏ thả trôi linh hồn trinh nguyên bập bềnh giữa thác ngàn”

Sau trận khải huyền của “máu” với đàn sói lang thang trong đêm huyền thoại của “Phúc âm sói lang thang”, “cánh hoa trắng” như một điểm nhấn của sự tinh khiết và lãng mạn. “Cánh hoa trắng” chính là biểu tượng của thơ ca, của nhạc điệu, của cảm xúc bất tận, của lễ hội hân hoan được viết trong “Phúc âm say”:

“Hãy chạm vào thực tại bằng nhịp đập thổn thức

Hãy khiến thực tại quay cuồng bằng nhịp điệu cảm xúc bất tận của vũ trụ

Trong lễ hội hân hoan, mọi thực tại đều đồng nhất

Rượu! Rượu! Rượu nữa!

Hãy để thơ ca vút lên khỏi vực xoáy thực tại

Như lão dê già say khướt dưới miệng vực, ngửa cao cổ ngắm nhìn vũ điệu phản chiếu trùng trùng”

Và thế là “Dã cổ vào mùa” trong phần “Say”, phần cuối cùng, cũng là phần kết tinh toàn bộ tinh hoa trong bút pháp và tư tưởng của Hà Thủy Nguyên. Không còn những lời tuyên ngôn, lời tự vấn, lời kêu gọi, ở đây tất cả dường như đã trôi dạt theo trật tự của thi hứng, của nhịp điệu. Nhưng nhịp điệu này lại không trật tự theo lối lục bát hay thất ngôn bát cú mà là những câu thơ ngắn, ngắt nhịp đột ngột, nhấn mạnh vào các ấn tượng. Bài “Phúc âm mưa” mở đầu “Say” là một sự mô phỏng nhịp mưa ở đất Bắc, từ âm điệu kéo dài, rồi lại đứt nối bằng từng chữ đơn lẻ, rồi lại dài và đều đều. Tự đồng nhất chân ngã với cơn mưa, Hà Thủy Nguyên đã làm một cuộc hành trình đánh thức với các số phận người, đánh thức họ khỏi “giấc mộng dài chốn vĩnh cửu thiên đường đang tốc gió bốn phương biến cát bụi thành cát bụi”:

Mưa dừng chân nơi đại mạc

Gột rửa nỗi đau cứu thế trên vai

Thiên thần lấp lánh hào quang nước

Sầu bi nhân thế…

Tạnh rồi…

Các bài “Điệu hờ”, “Vọng tưởng”, “Độc mộc”, “Mộng ba sinh” là một sự kết hợp giữa nhạc điệu với các văn án cổ phong như tích cầu Ô Thước, tích Dương Qúy Phi – Đường Minh Hoàng, tích Phù Sai – Tây Thi, giấc mộng mưu bá đồ vương, những biểu tượng như rồng, phượng hoàng, hồ ly, tiên nhân…v…v… Tựa hồ như đang được xem một tấn tuồng cổ bằng ngôn từ, mà tấn tuồng ấy là lồng ghép của rất nhiều các tấn tuồng khác nhau với các thân phận khác nhau. Nhân vật chính trong tấn tuồng này là “Cổ nguyệt”. “Cổ nguyệt” dịch ra tiếng Việt là “vầng trăng xưa”. “Vầng trăng xưa” ấy tuyệt nhiên không giống vầng trăng nay, cũng không phải là vầng trăng hiện hữu mà ta thấy trên bầu trời, ấy là vầng trăng của tâm thức. “Vầng trăng xưa” này mang tính nguyên mẫu. Từ ngàn xưa trăng đã đã đại diện cho sức mạnh tâm linh, cho nguồn cảm hứng, cho cái đẹp và bởi thể “cổ nguyệt” là đại diện cho sự chân thiện mỹ mà Hà Thủy Nguyên hướng tới. Tạo ra nhân vật hư ảo trong thơ là “cổ nguyệt”, tưởng như Hà Thủy Nguyên chịu ảnh hưởng của tư tưởng lãng mạn, khi con người còn mơ mộng sự lý tưởng. Nhưng không “cổ nguyệt” biến ảo khôn lường, cái nhìn của “cổ nguyệt” xuyên sâu vào hiện thực cuộc sống:

Đục ngầu nhân thế tro tàn

Vỡ vụn khuôn vàng thước ngọc

Lầu vọng trăng lửa ngút ngàn

Gỗ đá ăn mòn nhân loại

Lũ bùn nhơ ô uế hoàng đài

Dùi đục khoét hàng hàng cổ tự

Dòi bọ đội mồ nhơ bẩn gác thi nhân

Đó là cái nhìn về nhân thế của “Cổ nguyệt” hay của chính Hà Thủy Nguyên, cái nhìn về một thế giới ô trọc trong đó những gì đẹp đẽ đang bị phá hủy, sự vô cảm đang chiếm lĩnh nhân loại. Đây là cảm hứng được thấy ở nhiều nhà thơ Mỹ đầu thế kỷ 20. Trong bài “Điệp khúc tảng đá”, T.S Eliot viết:

“Đâu là cuộc sống bị thất lạc trong sự sinh tồn?

Đâu là sự thông thái thất lạc trong kiến thức?

Đâu là kiến thức thất lạc trong thông tin?

Vòng quay Thiên Đường trong 20 thế kỷ

Đưa chúng ta rời xa Chúa và tiến gần đến với Cát Bụi”

(Hà Thủy Nguyên dịch)

Còn trong tác phẩm “Tru”, Allen Ginsberg đã tuyên bố:

“Tôi đã chứng kiến những bộ não vĩ đại của thế hệ mình bị hủy hoại trong sự điên rồ, bị bỏ lại trần truồng trong loạn trí,

tự chôn vùi bản thân trên những con phố nhem nhuốc vào buổi bình minh để tìm kiếm sự cứu rỗi đầy phẫn nộ

những thiên thần cuối cùng thiêu rụi mối dây nối thiên đường cổ xưa với cỗ máy lốm đốm sao sáng trong động cơ ban đêm

những người khốn khổ và rách rưới với đôi mắt trống rỗng phì phèo điếu thuốc trong bóng tối siêu nhiên đang trôi chảy như dòng nước mát lạnh trên nóc thành phố theo điệu jazz

những người mở rộng trí não tới Thiên đường dưới sự che chở của Đấng Duy Nhất và thấy các thiên thần của Mohammed chấp chới thắp sáng trên những mái nhà

những người dạo chơi giữa vũ trụ với đôi mắt rạng rỡ với ảo tưởng bi kịch Arkansas và ánh sáng của Blake giữa các học giả thời chiến

những kẻ bị trục xuất khỏi viện hàn lâm vì sự điên rồ và rêu rao khúc du ca khiêu gợi xuyên thấu qua cửa sổ trí não,

những kẻ khỏa thân tự thu mình trong phòng trống, đốt tiền trong thùng rác và lắng nghe nỗi khủng khiếp trên tường,”

(Hà Thủy Nguyên dịch)

Sự yêu thích của Hà Thủy Nguyên dành cho T.S Eliot và Allen Ginsberg có lẽ là do sự tương đồng nhãn quan về thế giới. Có thể nhiều độc giả sẽ đánh giá đó là sự bi quan, nhưng đó là sự thực, bởi không ai có thể phủ nhận hiện trạng suy thoái tinh thần, suy thoái đạo đức, suy thoái mỹ cảm đang ngự trị trên thế giới hiện nay. Nhưng khác với T.S Eliot và Allen Ginsberg, Hà Thủy Nguyên không vẽ vời ra các viễn cảnh tương lai hay tạo ra hình mẫu con người cho thời đại mới. 

Hà Thủy Nguyên lộn ngược về các nguyên mẫu cổ, với “vầng trăng xưa” để say đắm với những thang bậc cảm xúc đẹp đẽ: vui cũng đẹp, buồn cũng đẹp mà hận cũng đẹp.

“Đâu nào loài người

Cưỡi cuồng vân – ngất ngây men dã cổ

Hủy luân thường – lãng đãng thú hoan ca

Điệu cười man man mùa mạt thế

Này ta xé lụa dưới mưa

Cười nghiêng trái đất ngàn xưa

Hồn hỡi hồn mơ

Nhuốm màu cổ nguyệt”

(“Tự khúc hồ ly”)

Và đây là buồn đẹp

“Ai có về nhặt hoàng hoa năm cũ

Khoác trên mình manh áo đẫm phong sương

Bóng trăng lợt buông rèm không muốn khóc

Ném hư vô lọt dưới đáy câu thơ

Có một kẻ đem thơ chôn xuống đất

Ủ men hoa cất chung rượu biệt thu

Hương thu say, cô nhạn nào sã cánh

Về đay chung tòa cổ mộ hoang vu

Và cùng mê hát một khúc phù du…”

(“Tiễn thu”)

Còn vui đẹp thì…

“Thuyền âm nhạc lững lờ – hững hờ

Mùa dã cổ lên men – lửa nhen

Ôi đàn ca vũ muôn năm cũ

Gẩy đàn mưa

Nhịp nhịp gió

Cung linh đưa đẩy gót sen vàng…”

(“Mưa mùa dã cổ”)

“Cổ nguyệt” còn là một phép chơi chữ. Trong tiếng Hán, chữ “Cổ” ghép với chữ “Nguyệt” thành chữ “Hồ”, nghĩa là con cáo. Ở đây, chân ngã lại mang một nguyên mẫu cổ nữa, đó là hồ ly tinh. Trong văn hóa dân gian Á Đông, hồ ly tinh hay còn gọi là cửu vĩ hồ thường đại diện cho người đàn bà đẹp, trí tuệ, sống bên ngoài các ràng buộc định chế xã hội, thường bị coi là kẻ ác. Trong “Liêu trai chí dị”, hồ ly tinh được mô tả là những mỹ nhân quyến rũ, chí tình chí nghĩa. Để chân ngã mang hình hài hồ ly tinh, Hà Thủy Nguyên biểu hiện một thứ tính nữ tự do, phiêu lãng, vừa đắm đuối với cuộc đời, lại vừa u uẩn buồn, vừa trí tuệ lại vừa trùng trùng tâm sự. Tính nữ này khác biệt rất nhiều so với các nhà thơ nữ khác của Việt Nam hoặc là giới hạn trong tình yêu, tình mẹ con, hoặc là sa đà vào dục tính. Bởi vậy, thơ Hà Thủy Nguyên xa lạ với đa số người, giống như hồ ly tinh vẫn là loài yêu quái mà con người vừa thích thú vừa e sợ vậy.

Sau tất cả là một sự quay lưng, đến trăng – mưa – hồ ly cũng nhạt dần. Sự quay lưng có màu sắc Đạo gia, như thể các bậc chân nhân, nhưng không phải. Sự quay lưng này lại là một lần tách biệt, nhưng phải phải cái tách biệt trốn tránh ở phần “Phiêu”, mà là sự tách biệt chân ngã khỏi con người thế sự, trong đó chân ngã hưởng thụ mọi thang bậc cảm xúc mà con người thế sự trải qua:

“Ta gối đầu cõi vô

Ngóng bụi tràn lả tả

Hít men thơ vào độ

Mơ tiếp mộng ba sinh…”

(“Mộng ba sinh”)

Lê Duy Nam

Bài đã đăng trên Văn Việt

Home 2021 / page 2

Dịch mới Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du

Người chơi đàn chốn Long Thành, không rõ tên gọi là chi. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học chơi đàn nguyệt (còn gọi là đàn Nguyễn) trong đội nữ nhạc hoàng cung vua Lê. Quân Tây Sơn ra Bắc, đội nhạc cũ người chết kẻ đi. Nàng lưu lạc các chợ, ôm đàn hát rong. Những khúc nàng chơi đều là khúc “Cung phụng” hầu vua, người ngoài chưa từng được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng bậc nhất một thời.

Thời còn trẻ, ta đến kinh đô thăm anh (tức Nguyễn Nễ), trọ gần Giám Hồ. Bên hồ, các quan Tây Sơn mở tiệc, ca kỹ đẹp có đến vài chục người. Nàng nổi danh nhờ ngón đàn nguyệt. Nàng hát hay khéo chuyện, ai cũng say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống can, tiền thưởng vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy, ta nấp trong bóng tối, không thấy rõ mặt. Sau được gặp ở nhà anh ta. Nàng người thấp bé, má bầu bính, trán cao, mặt gẫy, không quá đẹp, nhưng nước da trắng trẻo, thân hình nở nang, khéo trang điểm, lông mày thanh tú, má thoa phấn, áo hồng, quần lụa xanh cánh trả, có vẻ phong nhã. Nàng hay rượu hay pha trò, con mắt long lanh, chẳng để ai vào mắt. Khi ở nhà anh ta, mỗi lần uống rượu thì nàng say đến nỗi nôn bừa bãi, nằm lăn ra đất, chúng bạn chê trách cũng chẳng màng. Vài năm sau, ta rời nhà về Nam, mấy năm liền không trở lại Long Thành.

Xuân này ta lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, ngang qua Long Thành. Bạn cũ mở tiệc tiễn ta ở dinh Tuyên phủ, cho gọi vài chục ca nữ, ta đều không biết mặt biết tên. Các nàng thay nhau múa hát. Rồi ta nghe khúc đàn nguyệt trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, ta lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy một nàng gầy gò, tiều tụy, da đen sạm, xấu xí, áo quần vân vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im lặng cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng khó ưa. Ta không biết nàng là ai, nhưng tiếng đàn thì dường như đã từng nghe, nên động lòng thương tâm. Tiệc xong, hỏi biết thì ra chính là người trước kia từng gặp.

Than ôi! Người ấy sao ra nông nỗi này! Ta bồi hồi lúc ngẩng đầu khi cúi mặt, ngậm ngùi ngẫm cảnh xưa nay. Đời người trong cõi trăm năm, sự vinh nhục buồn vui thật khó đoán biết. Từ biệt lên đường, cảm thương khôn xiết, nên làm bài ca để ghi lại tâm tư.

Giai nhân Long thành

Danh xưng nào biết

Ngón đàn diệu tuyệt

Người đời lấy “Cầm” làm tên gọi

Gảy được khúc “Cung phụng” xưa thuở tiền triều,

Chợt nghe điệu đàn tiên giới bậc nhất hồng trần.

Nhớ thời niên thiếu duyên gặp gỡ,

Bữa tiệc đêm bên Giám Hồ xưa.

Tuổi nàng hăm mốt vào độ ấy,

Vẻ đào hoa gió xuân hây hẩy.

Rượu say thêm dáng người khả ái,

Tay lướt năm cung réo rắt lòng.

Khoan như gió thoảng trên đồi tùng

Thanh như hạc gọi giữa núi rừng.

Mạnh như sấm sét bia Tiến Phúc vỡ tan(*)

Buồn như điệu Việt chàng Trang Tịch ngâm nga (**)

Kẻ nghe say đắm nào biết mệt

Qủa là điệu cũ chốn cung xưa (***)

Quan khách Tây Sơn túy lúy đều nghiêng ngả

Đêm truy hoan nào biết sáng rồi.

Tả hữu tranh nhau khen ban thưởng,

Bạc tiền ngập đất nghĩa chi đâu.

Khí độ hào hoa vượt công hầu

Công tử Thiếu Lăng sánh được đâu.

Ba mươi sáu cung xuân ngày ấy

Đổi lấy trân bảo chốn kinh kỳ.

Lặng nhớ nay đã hai mươi kỷ,

Tây Sơn tiêu tán ta vào Nam.

Long thành gần gụi mà nào thấy,

Kể chi ca múa tiệc nơi đây.

Nay Tuyên phủ sứ bày tiệc đãi mừng ta,

Giữa chiếu thiếu nữ đang hát ca

Thấy nàng tóc che nửa mặt hoa

Sắc tan hồn nát thân nhỏ bé.

Phờ phạc mày thưa kém điểm trang,

Ai biết nàng xưa từng nổi danh đệ nhất kinh kỳ.

Khúc xưa điệu mới mà rơi lệ,

Tai nghe lòng lặng nặng sầu bi.

Bất chợt lòng nhớ hai mươi năm lần ấy,

Đã gặp nàng nơi Giám Hồ kia.

Thành quách đổi dời người cũng khác

Năm tháng ruộng dâu hóa biển khơi.

Cơ nghiệp Tây Sơn một sớm rồi cũng lụi,

Sót lại nơi đây nàng ca nhân

Thấm thoắt trăm năm là bao nhỉ,

Chuyện cũ lòng đau lệ đầm đìa.

Sông Nam ngoảnh lại đầu đã bạc (****)

Trách sao nhan sắc cũng tàn phai.

Hai mắt mở to lòng nhung nhớ

Xót xa gặp gỡ biết đâu mà.

Hà Thủy Nguyên dịch

(*) Bia Tiến Phúc:  Tương truyền Phạm Trọng Yêm đời Tống lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò nghèo dâng bài thơ hay. Ông muốn giúp đỡ, cho rập một ngàn bản in để bán lấy tiền, chưa rập xong thì một nên bản in rập đã bị sét đánh vỡ tan.

(**)Trang Tích, người Việt làm quan cho nước Sở. Khi ốm, ông vẫn ngâm nga điệu Việt.  

(***) Trung Hòa là tên một điện trong hoàng cung nhà Lê.

(****) Tức ám chỉ sông Gianh

>> Đọc thêm: Nhân sinh vô thường trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du – Hà Thuỷ Nguyên (hathuynguyen.com)

Bản Hán Việt:

Long Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kỳ ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kỳ nhân lưu lạc thị triền, hiệp kỹ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kỹ. Dư thiếu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kỳ bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kỳ nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất toạ tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch uỷ tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thuý tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận tuý, ẩu thổ lang tạ, ngoạ địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kỳ nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc toạ tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kỳ trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thuỳ hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kỳ nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kỳ khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.

Long thành giai nhân,
Bất ký danh tự.
Ðộc thiện huyền cầm,
Cử thành chi nhân dĩ cầm danh.
Học đắc tiên triều cung trung “Cung phụng” khúc,
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh.
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến,
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến.
Thử thời tam thất chánh phương niên,
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện.
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân,
Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến.
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm,
Thanh như chích hạc minh tại âm.
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch,
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm.
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện,
Tận thị Trung Hoà Ðại Nội âm.
Tây Sơn chư thần mãn toạ tận khuynh đảo,
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu.
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu,
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo.
Hào hoa ý khí lăng công hầu,
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo.
Tính tương tam thập lục cung xuân,
Hoán thủ Trường An vô giá bảo.
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên,
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên.
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến,
Hà huống thành trung ca vũ diên.
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu,
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan xú thần khô hình lược tiểu.
Lang tạ tàn my bất sức trang,
Thuỳ tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu.
Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi.
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự,
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ độ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong,
Ca vũ không lưu nhất nhân tại.
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
Nam Hà quy lai đầu tận bạch,
Quái để giai nhân nhan sắc suy.
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng,
Khả liên đối diện bất tương tri.

*Ảnh minh họa: Nhân vật Cầm trong bộ phim Long Thành cầm giả ca, đạo diễn Đào Bá Sơn, làm về mối tình của Nguyễn Du với nàng kỹ nữ.

Home 2021 / page 2

Phim Kiều năm 2021: Nhà báo vẫn như “chim ăn xác thối” và ngành giải trí Việt chẳng khác gì lầu xanh

Ngay từ khi tung ra teaser và trailer, phim Kiều đã nhận không ít gạch đá từ dư luận vì sự lên hình kệch cỡm, cho đến khi phim công chiếu thì những lời “chỉ trích” phim đã nâng cấp lên thành tổng sỉ vả, một trận ném đá tập thể từ các nhà báo.

Khi báo chí đồng lòng chê một tác phẩm, tuyệt đối đừng tin

Vâng, đó là nhân định của tôi khi nghĩ về nền báo chí “ném đá tập thể” – nơi tập hợp những cây bút gạo cội của ngành giải trí và văn hóa. Tại sao tôi lại đưa ra nhân định như vậy? Bởi vì tôi đã từng là nạn nhân của một cuộc ném đá tập thể tương tự.

Năm 2008, khi bộ phim truyền hình Vòng nguyệt quế của tôi được phát sóng trên giờ Vàng VTV1, một trân mưa đá đã dội dồn dập vào tôi với những lập luận ngô nghê kiểu: “Những chi tiết ấy làm gì có thật”, “Bôi nhọ văn đàn”, “Bôi nhọ giới trí thức”… “Nhiều sạn” luôn là từ khóa ưa thích được các nhà báo sử dụng để chê bai một bộ phim, mà cái sạn ấy không bao giờ được phân tích bài bản bằng học thuật hay kỹ thuật làm phim mà bằng “quan điểm” (nếu không muốn nói là thiên kiến) của người viết. Cách phê bình phim theo lối này là minh chứng cho một nền báo chí chuyên chế của đa số, trong đó ngôn từ ngoa ngoắt và đanh đá một cách đầy ác ý để hả dạ bản thân và điều hướng đám đông tẩy chay một tác phẩm, trở thành phong cách điển hình. Tôi bắt gặp toàn bộ chuỗi diễn ngôn này trong cuộc ném đá tập thể phim Kiều (tôi cũng bắt gặp quy trình ném đá này đối với không ít bộ phim và cuốn sách có thiên hướng độc lập khỏi những nhóm lợi ích lớn trong làng giải trí và văn hóa).

Phim Kiều bị chê với lập luận phổ biến nhất: không gần với nguyên tác. Đây là lập luân cho thấy cái phông văn hóa của người viết quá tệ. Đòi hỏi một bộ phim gần với nguyên tác là điều lố bịch nhất, đặc biệt với trường hợp phim Kiều, khi mà chính Nguyễn Du khi viết “Đoạn trường tân thanh” cũng chẳng hề “gần với nguyên tác”, và thậm chí  khi dân gian ta gọi vui mồm tên tác phẩm thành “Truyện Kiều” thì cũng tuyệt đối không coi trọng gì cái tên mà Nguyễn Du đặt. Biên kịch phóng tác dựa trên tác phẩm của tác giả, không giữ nguyên vẹn nguyên tác, âu cũng là điều bình thường, quan trọng là sự phóng tác ấy có giá trị hay không.

Nếu tìm hiểu về nền điện ảnh và giải trí thế giới, sự phóng tác dựa trên các nguyên mẫu nhân vật là điều hoàn toàn bình thường. Ta có thể bắt gặp hiện trạng phổ biến này ở các bộ phim của Marvel hay DC, khi nhóm làm phim điện ảnh, nhóm làm phim hoạt hình, nhóm làm TVseries… đều có những phóng tác hoàn toàn rất khác so với nguyên tác truyện tranh. Ta cũng có thể thấy những bộ phim kinh điển của Trung Quốc như “Tây Du Ký” (bản năm 1986), “Tam Quốc diễn nghĩa” (bản năm 2010), “Bá vương biệt cơ” (1993)… đều chẳng “gần với nguyên tác”.

“Gần với nguyên tác” là nỗi ám ảnh khiên cưỡng của những khán giả cực đoan – mà chủ yếu đến từ giới phê bình hoặc báo chí vốn có đặc quyền trong định hướng dư luận. Trong cơn tự huyễn về năng lực văn hóa của mình, họ đã quá coi trọng “nguyên tác” bởi đọc “nguyên tác” có vẻ như biến họ thành người có văn hóa hơn so với những người dám phóng tác. Bởi thế, họ cứ bám riết lấy “nguyên tác” và dùng “nguyên tác” như một thứ khuôn vàng thước ngọc để đánh giá các tác phẩm mà họ không ưa. Đây là lối phê bình hay đúng hơn là chỉ trích, chê bai vô trách nhiệm, thiếu hiểu biết và hoàn toàn độc đoán, mà có lẽ chỉ tồn tại ở hệ thống báo chí thiếu các nghiệp vụ căn bản về học thuật và văn hóa.

Nếu kịch bản phim Kiều dở thì nền giải trí Việt Nam đích thực là lầu xanh

 

Người chắp bút kịch bản cho phim Kiều  là đạo diễn Phi Tiến Sơn. Ông đã chọn một lát cắt nhỏ trong toàn bộ cuộc đời nàng Kiều: mối quan hệ tay ba Kiều – Hoạn Thư – Thúc Sinh. Tôi có thể mường tượng được tại sao ông lại chọn đoạn truyện này. Trọng điểm nằm ở vấn đề kinh phí. 

Nếu dàn trải toàn bộ cấu trúc của “Đoạn trường tân thanh” thì nguồn kinh phí có lẽ sẽ đội lên rất lớn. Đoạn duyên với Thúc Sinh vừa có đủ các yếu tố của một mối quan hệ phức tạp nhiều kịch tính, không nhạt nhẽo như mối quan hệ Kim – Kiều; vừa tiết kiệm tài chính, bạn hãy thử hình dung những cảnh quay chiến trận trong mối quan hệ của Kiều và Từ Hải mà xem! Thân phận của biên kịch ở Việt Nam là thế đấy, vừa phải đảm bảo độ “drama” phù hợp với mô tuýp tư duy của đại đa số công chúng, lại vừa phải tiết kiệm chi phí tối đa cho nhà sản xuất.

Đạo diễn Phi Tiến Sơn (sinh năm 1954, tại Hà Nội)

Phi Tiến Sơn là một đạo diễn gắn liền với những bộ phim theo sát vấn đề nóng của xã hội như: Nghề báo, Lưới trời, Người vác tù và hàng tổng, Xin thề anh nói thật…

Ông sinh ra tại Hà Nội. Từ nhỏ, ông đã được cha mẹ cho quyền lựa chọn nghề yêu thích. Ông từng ước mơ trở thành một nhà toán học hoặc làm một ngành gì đó liên quan đến kỹ thuật… Thế nhưng, số phận đã bất ngờ đưa ông rẽ từ trường Bách Khoa sang trường Sân khấu điện ảnh. Và ông vẫn luôn trung thành với nghề mà ông đã chọn dẫu biết rằng nó gập ghềnh gian khó.

(Trích: Người Nổi Tiếng)

 

Các nhân vật Kiều – Hoạn Thư – Thúc Sinh đã được xây dựng mới dựa trên góc nhìn của người biên kịch, vậy nên, không lạ khi người xem thấy ba nhân vật này đều “khác” so với nguyên tác. Biên kịch đã có lý khi tạo cho Hoạn Thư và Thúc Sinh bối cảnh để hình thành nên tính cách đặc trưng: Thúc Sinh sợ vợ bởi anh ta có xuất phát điểm thấp hơn so với nhà vợ (dân gian ta vẫn gọi là “chó chui gầm chạn”), Hoạn Thư  ghen tuông độc ác bởi cô khao khát được hưởng ân ái vợ chồng trong vô vọng – một hình mẫu quen thuộc ở xã hội ngày nay. Mặc dù nhiều nhà báo đánh giá cảnh tự sướng của Hoạn Thư là thô tục, nhưng tôi cho rằng đó là thành công lớn nhất của bộ phim, bởi biên kịch đã dám tiếp cận khía cạnh đau thương nhất, sâu kín nhất của người phụ nữ ghen tuông chứng kiến người chồng của mình ngoại tình.

Ngược lại, nàng Kiều là sự thất bại. Phải thừa nhận, nàng Kiều quá nhạt. Kiều không có tính cách, chỉ như một cái giá áo xinh xắn ôm đàn đi đi lại lại và không biết làm gì ngoài…ngã, khóc, rồi mơ tưởng anh chàng “soái ca” Thúc Sinh. Kiều chấp nhận để người chị em tốt của mình rơi vào tay một gã bạo dâm, thế chỗ cho mình, đánh cược mạng sống của người chị em để đổi lấy tự do… toàn bộ điều này hoàn toàn mâu thuẫn với quá khứ “bán mình chuộc cha” của Kiều, và kể cả không có quá khứ, thì hành động này cũng phản ánh một Kiều ích kỷ, “trà xanh” (nói theo ngôn ngữ của cộng đồng mạng”).

Sự thất bại càng được nhân lên khi Kiều chẳng hề bị dày vò trong lầu xanh, bởi cứ mỗi khi gặp nguy hiểm, đã có “chị đại” Đạm Tiên lo. Và điều này khiến chẳng ai đau cho Kiều – nhân vật mà Nguyễn Du gửi gắm nỗi lòng của ông về cuộc đời phiêu bạt nay theo chủ này mai theo chủ khác mà ông đã trải qua vào giai đoạn Lê Mạt đến đầu Nguyễn. “Ướp trinh” cho Kiều không phải là cách khóc Nguyễn Du, bởi thế câu thơ được chọn để gây ấn tượng trên poster và generic của phim trở nên lố bịch: “Bất tri tam bách dư niên hậu/Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như”. Nhưng, công tâm mà nói, cách nhà làm phim bảo vệ cái màng trinh cho Kiều cũng không khác mấy cách các học giả thần thánh hóa Nguyễn Du, tự trói Nguyễn Du vào nguyên mẫu của một hàn nho yêu nước thương dân, trong khi ông cũng có đủ thói tật nhược của một con người bị thời đại mình sống chi phối.

Một điểm đáng thất vọng khác của phim Kiều lại chính là thiếu vắng cảnh tình dục chứ không phải tình dục thô bỉ. Lỗi này âu cũng không hoàn toàn của nhà làm phim mà là của hệ thống kiểm duyệt và cái nhìn phiến diện của dư luân Việt Nam với các cảnh quay tình dục. Giữ Kiều còn trinh dù sống giữa lầu xanh là một cách “lách” khéo léo của biên kịch để qua cửa kiểm duyệt để rồi vô tình giết chết cả Kiều và Tú Bà. Lầu xanh không còn là lầu xanh, mà đã trở thành sân khấu mãi nghệ của nàng Kiều. Nỗi đau bị dầy vò thân xác bởi những người đàn ông phũ phàng chỉ biết đến nhục dục bị thay thế bằng màn “ma ám” gây hài mà không cười nổi.

Khi xem đến phút cuối của bộ phim này, tôi không thương cho cô Kiều hay Nguyễn Du, mà tôi thương cho đạo diễn và biên kịch. Nỗi đau của họ phần nào đó lại giống cô Kiều, mà có khi còn khổ hơn Kiều. Kiều còn có thể biểu hiện nỗi đau của mình qua tiếng đàn, còn người làm kịch bản phim thì chỉ có thể “ngậm đắng nuốt cay” vì sự cay đắng của bản thân mà biểu hiện lên phim hẳn là sẽ không qua được cửa kiểm duyệt chứ đừng nói đến đứng vững trước miệng lưỡi cay độc của dư luân. Biên kịch, suy cho cùng, cũng là một cô gái bị gả bán vào lầu xanh mà cái lầu xanh này là thị trường giải trí Việt khốc liệt. Một ý tưởng kịch bản ban đầu dù hay đến đâu, sâu sắc đến đâu, qua cửa của các nhà đầu tư, chuyên gia marketing, nhà kiểm duyệt… đến cuối cùng cũng phải: bớt ngôn từ phức tạp đi, bớt khó hiểu đi, bớt vẽ vời tốn kém đi, bớt tình dục đi, bớt chính trị đi… rồi thêm tí gây hài, tí giọng miền nam, tí giọng miền trung, tí ngôn tình, tí tình tay ba, tí bạo lực, tí sướt mướt, tí Kungfu… Người biên kịch trải qua đủ sự dày vò ấy, chịu đựng nhiều  năm trong nghề (cứ cỡ 10 năm gió bụi như Kiều hay Nguyễn Du) thì ắt sẽ lên lão làng đến mức tự gọt bản thân trước khi đem trình ý tưởng. Đương nhiên, ở đây tôi sẽ không đề cập đến những biên kịch sinh ra đã đầy đủ tố chất của một thứ điếm bợm, luôn chạy theo thị hiếu và tròn vo với mục đích bán hàng đắt khách hộ phòng vé, nhà đầu tư, đội ngũ marketing, PR… vốn toàn là phường Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh… Vâng, họ là những biên kịch viết các bộ phim gây hài ngớ ngẩn, hay những bộ phim đời thường sến súa.

À quên, tôi quên đề cập đến nhà sản xuất. Họ cũng rất đáng thương, đáng thương như Thúc Sinh vậy. Tìm được ý tưởng kịch bản hay giữa làng giải trí, khác nào Thúc Sinh nghe được tiếng đàn của Kiều giữa lầu xanh. Họ cũng muốn thi triển để thỏa lòng tri âm, nhưng khốn nỗi tiền của họ không phải do họ quyết định và suy cho cùng để quay vòng vốn  để tái đầu tư phim khác thì vẫn cứ phải dựa vào đội ngũ marketing, PR, phòng vé và nhà đầu tư. Thế nên, họ cũng yếu đuối và nhu nhược như Thúc Sinh: hữu tâm vô lực mặc nàng Kiều bị “vùi liễu dập hoa”.

Tại lầu xanh của ngành giải trí Việt, mọi thứ đều để bán, dù không hiểu hết giá trị

Hãy trung thực với nhau, đối với các đại gia của ngành giải trí, Nguyễn Du cũng để bán, Truyện Kiều cũng chỉ để bán, nỗi đau mà không bán được thì cũng vứt. Với tâm thức ấy, tác phẩm nghệ thuật, các nét văn hóa có giá trị đều bị coi như thứ vật trang trí để giúp bán hàng tốt hơn. Nhân dịp kỷ niệm 255 năm ngày sinh và 200 năm ngày mất của Nguyễn Du, dự án chạy đua “bắt trend” Kiều đã vội vã bấm nút mà không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Tại sao tôi dám khẳng định điều này, bởi vì bộ phim được sản xuất quá hời hợt và thiếu tinh tế, thiếu các cảnh quay đẹp sắc nét, mà chỉ ở đẳng cấp như phim truyền hình ngôn tình của Trung Quốc.

Ví dụ, khi Kiều đứng ngóng chờ Thúc Sinh trở về, mấy câu Kiều được lẩy:

 

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường….

 Câu thơ thể hiện cho nỗi nhớ nhung Thúc Sinh của Kiều, và trong đêm thì nỗi nhớ nhung này mới dày vò cực độ. Vầng bán nguyệt đại diện cho sự không trọn vẹn hiện lên giữa màn đêm tối tăm càng khoét sâu nỗi sầu chia biệt.

Ấy vậy mà câu thơ này lại được ngâm khi Kiều đứng trên núi như nàng Tô Thị hóa đá giữa ban ngày.

Nếu một nhà làm phim chuẩn bị kỹ lưỡng cả tài lực và vật lực, thì hẳn sẽ canh được một đêm trăng bán nguyệt để quay trường đoạn nhớ nhung này của Kiều. Nỗi nhớ của Kiều bỗng chốc chỉ là chút lóe qua và bốn câu thơ hay bậc nhất trong “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du trở thành lời minh họa để người ta biết đó là Kiều đang nhớ Thúc Sinh chứ không phải nữ chính trong phim ngôn tình Trung Quốc đang nhớ nam chính.

Và với tâm thức chẳng khác gì Tú Bà rao bán Kiều ấy, cùng với phông văn hóa thiếu thốn, những chi tiết đòi hỏi xử lý kỹ lưỡng về mặt văn hóa đều bị bỏ qua. Diễn viên ngâm thơ Kiều như đọc thuộc lòng, đôi khi bị đưa vào thoại mà diễn viên chẳng hiểu hết nội hàm ý nghĩa. Nhà làm phim pha trộn trang phục Việt và trang phục Trung Quốc một cách thiếu tính toán dẫn đến nghịch lý nực cười thế này: đôi nam nữ chính thì ăn mặc như phim cổ trang Trung Quốc còn diễn viên phản diện lại ăn mặc theo phong cách cung đình Huế. Nếu soi xét về mặt chính trị, có lẽ bộ phim sẽ còn gặp phải nhiều gạch đá nữa.

Theo như thông tin chính thức, đạo diễn Mai Thu Huyền đã ấp ủ dự án phim “Kiều” từ năm 2009 và đến 2019 mới bắt đầu khởi động. Tôi không muốn nghi ngờ độ chính xác của thông tin này, nhưng 10 năm chuẩn bị mà cái phông văn hóa về Kiều của nhà làm phim chỉ tới vậy, thì tôi cũng không rõ nên hiểu từ “ấp ủ” ở đây theo nghĩa nào. “Ấp ủ” có thể là bản mô tả dự án được liệt kê trong bản checklist của sự nghiệp và Mai Thu Huyền không hề chuẩn bị bất cứ nền tảng nào để hoàn thành bộ phim này ngoài cái bằng đạo diễn và chút vốn liếng dắt lưng.

Vị trí thực sự thiếu trong đoàn làm phim Kiều là một chuyên gia văn hóa, người đủ hiểu biết để phân tích những rủi ro trong lựa chọn phóng tác, bối cảnh, trang phục, thông điệp truyền thông… Sự thiếu này cũng dễ hiểu, bởi nhà làm phim hoặc coi thường nhận thức của khán giả, hoặc quá tự đắc với sự hiểu biết của mình, hoặc quá mải mê với sự sáng tạo… nhưng dù gì đi chăng nữa thì cũng là bởi nhân thức không đầy đủ về trách nhiệm bảo tồn văn hóa trong giải trí và truyền thông, tương tự với hầu hết các bộ phim giải trí Việt của các nhà làm phim miền Nam.

Giá như bộ phim chẳng liên quan gì đến Kiều

Nếu tách toàn bộ nội dung phim ra khỏi cái khung của Truyện Kiều, tôi cho rằng đây là một bộ phim tốt. Các diễn viên đều tròn vai, tâm lý nhân vật diễn biến sống động, bối cảnh đẹp, trang phục tuy hơi nhức mắt nhưng cũng kì công. Kịch tính trong phim được đẩy có nhịp độ , không bị vụn vặt. Đây sẽ là một bộ phim tình tay ba đầy tính nhân văn trong đó các nhân vật đều chỉ vì khao khát được yêu thương mà gây đau đớn cho nhau để rồi được hóa giải bằng lòng vị tha. Oan hồn can thiệp vào cuộc đời của nữ chính như một thứ bóng âm tinh thần, tạo nên phân cực và mâu thuẫn thú vị bên trong tâm lý của nữ chính. Nhưng không, cốt truyện này cứ phải khoác một cái áo “Truyện Kiều”, bất kể là rộng hay chật thì nó cũng không thích hợp và gây khó chịu.

Đến đây, tôi chợt nhớ đến bộ phim “Long thành cầm giả ca” của đạo diễn Đào Bá Sơn được công chiếu năm 2010 nhân dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long. Đây là một bộ phim giản dị, không có những pha gây hài nhếch nhác, thơ Nguyễn Du được lẩy hợp bối cảnh và nhiều cảm xúc… Khi xem phim, tôi cảm nhân được toàn bộ bầu không khí thành Thăng Long thời Lê Mạt, dù cho những hạn chế về bối cảnh. Phim cổ trang Việt hay, với tôi là một bộ phim như vậy, một bộ phim mà tuyến kịch bản gắn liền chặt chẽ với bối cảnh lịch sử và từng chi tiết đều gợi lên đời sống lịch sử ấy. Các nhân vật bất chấp áp lực phải vừa lòng khán giả hiện đại, được trọn vẹn với tâm tư của thời đại mình đang sống.

Sự so sánh này nói ra thì đau lòng và có phần tàn nhẫn. Một đằng là cố gắng xoay sở để tìm nhà đầu tư từ tầng lớp “Tú Bà” để cố thỏa đam mê làm nghề, một đằng là có sẵn ngân sách và chẳng phải lo áp lực bán vé, đương nhiên tâm thế làm phim sẽ rất khác nhau. Tình cảnh này ứng vào đúng mấy câu của Nguyễn Du, và tôi cũng xin được lẩy mấy câu Kiều khép lại bài viết cám cảnh của mình:

 

Ngẫm hay muôn sự tại trời

Trời kia đã bắt là người có thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao

Hà Thủy Nguyên

Đọc thêm:

Tự khúc cái chết

(Tôi viết cho bố ngày bố qua đời) Ngày lại ngày… ta thấy cái chết ở mọi ngóc ngách của cuộc sống… Một bản nhạc

Read More »

TẾT THÌ LÀM GÌ?

Gần đến Tết rồi, người ta vẫn bàn cãi nhau về chuyện giữ Tết hay không giữ Tết. Bên thì cho rằng gần “gìn giữ

Read More »
Home 2021 / page 2

Sự suy thoái của thế hệ trẻ hay chuyển dịch hệ hình tư duy

Nhiều người cho rằng thế hệ trẻ là một thế hệ vứt đi, văn hóa đọc xuống cấp, nghệ thuật – tư tưởng đang trên đà suy thoái. Điều này có đúng hay không? Đó có thể chỉ là góc nhìn tiêu cực đầy định kiến. Book Hunter đã có dịp thực hiện một bài phỏng vấn PGS – TS phê bình văn học Đỗ Lai Thúy, tác giả của các cuốn phê bình văn học như “Mắt Thơ”, “Bút pháp của ham muốn”, “Thơ như là Mỹ học của cái Khác” về vấn đề này. Trong tác phẩm mới xuất bản năm 2012 “Thơ như là Mỹ học của cái Khác”, ông Đỗ Lai Thúy đã có nhắc đến sự chuyển dịch Hệ hình tư duy và ông cho rằng những hiện tượng xung đột giữa các thế hệ hiện nay là dấu hiệu của một cuộc chuyển dịch lớn.

Book HunterTrước hết, rất mong ông có thể giúp các bạn đọc hiểu Hệ hình tư duy là gì? Loài người đã trải qua bao nhiêu Hệ hình tư duy? Và hiện nay Việt Nam của chúng ta đang ở trong Hệ hình tư duy nào?

PGS-TS Đỗ Lai Thúy: Tôi phân chia Hệ hình tư duy dựa vào hệ hình văn hóa. Trong văn hóa có 3 hệ hình: Tiền Hiện đại, Hiện đại và Hậu Hiện đại. Quy chiếu sang tư duy sẽ có Tư duy Tiền Hiện đại, Hiện đại và Hậu hiện đại. Ở thế giới phương Tây, các hệ hình này chuyển dịch một cách kế tiếp, tức là hệ hình này kết thúc thì sẽ chuyển sang một hệ hình khác: Hệ hình Tiền Hiện đại kết thúc rồi đến hệ hình Hiện Đại, sau đó mới đến Hệ hình Hậu hiện đại. Ở Việt Nam, các hệ hình này không nối tiếp nhau mà “gối tiếp nhau”. Chính sự gối tiếp đó, tạo ra sự đồng tồn, các hệ hình cùng tồn tại song song với nhau. Cùng một lúc, trong xã hội nước ta hiện nay, tồn tại cả Hệ hình Tiền Hiện đại, Hiện đại và Hậu Hiện đại. Trong đó, Hệ hình Tiền Hiện đại vẫn giữ vai trò chủ đạo, ở vị trí trung tâm và có khả năng chi phối các Hệ hình khác.

Khi phân định các hệ hình, chúng ta cần phân định ở mặt chủ yếu nhất. Mỗi giai đoạn lịch sử đều nổi lên một vài mặt chủ yếu nhất. Tuy nhiên, vẫn có thể có các ngoại lệ, các cá nhân không theo hệ hình của thời đại mình đang sống và nằm ở ngoại vi. Nhiều học thuyết có hơi hướng Hiện đại, thậm chí là Hậu hiện đại xuất hiện ở thời kỳ của Tiền Hiện đại, nhưng đó không phải là chủ đạo.


PGS-TS, nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy: Sinh năm 1948 tại Sơn Tây (Hà Nội), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Sau xuất lính 10 năm, ông về làm biên tập tại NXB Ngoại văn (Thế giới), sau đó phụ trách tạp trí Etudes Vietnamiennes, rồi chuyển sang tạp chí Văn hoá Nghệ thuật làm Phó Tổng biên tập.

Book HunterVậy biểu hiện của các Hệ hình này như thế nào và lấy tiêu chuẩn nào để phân định các Hệ hình?

PGS- TS Đỗ Lai Thúy: Nếu chia ra thành các hệ hình văn hóa lớn, ta có thể thấy rằng văn hóa ở cấp độ tổng thể luôn thể hiện trình độ phát triển của loài người. Tiêu chí để phân biệt các Hệ hình phải tương ứng với cấp độ của văn hóa, bởi thế tiêu chí ở đây là quan niệm thực tại.

Tiền Hiện đại có quan niệm rằng Thế giới xung quanh ta là một thế giới khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người. Ý thức của con người phản ánh thực tại đó một cách trung thực.

Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi thuyết tương đối của Einstein và thuyết Lượng tử ra đời thì quan niệm về thế giới ấy bị sụp đổ. Thế giới chúng ta đang sống, theo quan niệm Tiền Hiện đại, được tạo nên bởi vật chất, mà vật chất được cấu thành bởi các hạt nguyên tử. Cuối cùng, các nhà khoa học khám phá ra rằng nguyên tử không phải là các hạt rắn đặc mà là hạt rỗng. Trong nguyên tử còn rất nhiều các hạt hạ nguyên tử, các hạt hạ nguyên tử nảy sinh hoặc biến mất trong một chớp mắt. Bởi thế, nguyên tử không còn nữa, vậy nên có thể coi rằng vật chất không có thật. Một quan điểm nữa dẫn dến nhận định thế giới này không thực sự có thật. Trước đây, các nhà khoa học đều cho rằng kết quả nghiên cứu thế giới là khách quan, thế nên người nghiên cứu không có vai trò tác động đến kết quả; nhưng sau đó thì họ nhận ra rằng kết quả nghiên cứu bị tác động bởi chính người nghiên cứu, nói ngắn gọn là cái vốn dĩ khách quan giờ đây không còn khách quan nữa, cái khách thể giờ đây có sự tham gia của chủ thể. Với một quan niệm thực tại như vậy, con người bước vào thế giới Hiện đại. Như thế có nghĩa là thế giới khách quan mà con người cảm thấy bằng giác quan trong tính liên tục giờ đây đã bị vỡ. Những người chịu ảnh hưởng quan niệm về thế giới của Hệ hình Hiện đại thấy rằng cần phải có một điều gì đó có thể hàn gắn thế giới. Sự hàn gắn này không chỉ nằm ở bề mặt, mà còn nằm ở bề sâu, mà chủ nghĩa cấu trúc là một ví dụ. Cấu trúc là một thứ rất vô hình, nhưng bằng cấu trúc đó, các mảnh vỡ sẽ được thống nhất với nhau. Trong bản thể của con người, cái vô thức được tìm ra với mục đích gắn kết những mảnh vỡ trong tâm trí con người với nhau. Vì thế, trong thế giới Hiện Đại, người ta đi tìm tổng thể mà tổng thể lại vô hình.

Từ năm 1960 trở đi, có một quan niệm rằng thế giới tồn tại rất nhiều các khả năng, khi ý thức con người va chạm với một trong các khả năng đó thì khả năng trở thành thế giới như chúng ta thấy hiện nay. Điều đó có nghĩa là có đồng thời song song nhiều thế giới và một người có thể tham gia vào nhiều thế giới khác nhau. Mỗi khi tham gia vào một thế giới thì con người lại có một cái Tôi, nhưng khi tham gia vào thế giới khác thì con người lại có một cái Tôi khác… Điều này dẫn đến một con người có rất nhiều cái Tôi. Đây chính là quan niệm thực tại của Hậu Hiện đại. Lúc bấy giờ, thế giới tồn tại 2 trường phái Vật lý. Một trường phái cho rằng dù thế nào cũng vẫn tồn tại một thế giới khác quan, có điều con người chưa nhận thức được nó, và càng hiểu biết thì càng tiếp cận gần hơn với thế giới khách quan. Ngay cả Einstein cũng có quan niệm như vậy. Nhưng trường phái đối lập là lượng tử thì cho rằng không có thế giới khách quan mà thế giới chỉ là những khả năng và có nhiều thế giới chồng chéo lên nhau.

Book Hunter: Theo ông, sự phân định các Hệ hình này đang diễn ra ở Việt Nam như thế nào?

PGS – TS Đỗ Lai Thúy: Ở xã hội Việt Nam hiện nay tồn tại song song cả 3 hệ hình mà chủ đạo lại là Tiền Hiện đại và có khả năng chi phối 2 hệ hình còn lại. Khi tồn tại một lúc cả 3 hệ hình như vậy thì xã hội sẽ có xu hướng lấy tiêu chí của hệ hình này để đánh giá hệ hình kia. Ví dụ như các họa sĩ có tư duy theo Hệ hình Tiền Hiện đại thì sẽ không thể cảm nhận được tranh Picasso, bởi tranh Picasso không mô tả thế giới khách quan mà bằng trường phái lập thể ông đã cấu trúc hóa lại thế giới. Vì thế, đúng như bây giờ dư luận đang nói, xã hội Việt Nam đang rơi vào tình trạng “loạn chuẩn”. Một cách công bằng mà nói, thành tựu nghệ thuật không có cao và thấp, không có hơn kém, bởi vì các tác phẩm ở các Hệ hình khác nhau thì sẽ có các tiêu chuẩn khác nhau. Vì thế, để đánh giá một tác phẩm, chúng ta phải đặt mình vào Hệ hình của nó. Một tác phẩm hay thuộc Hệ hình Tiền Hiện đại đương nhiên còn giá trị hơn rất nhiều so với tác phẩm dở của Hậu Hiện đại.

Book HunterCó phải các nhà Cách tân ở Việt Nam hiện nay đều đang hướng đến Hệ hình Hiện đại? Vậy còn số phận Hậu Hiện đại thì đang ra sao?

PGS TS Đỗ Lai Thúy: Đúng. Ví dụ như trong Hội họa hiện nay, các họa sĩ Việt Nam đang đi theo hướng Lập Thể, đó chính là xu hướng cấu trúc lại, xu hướng của Hiện đại. Sự thay đổi đó rất khó vì chúng ta đã có những cái chuẩn trong hệ hình Tiền Hiện đại, dù là hội họa hay văn chương, và cái chuẩn ấy đang định hướng xã hội.Tâm lý con người nói chung thường cho rằng những tác phẩm chuẩn mực và kinh điển có sức sống muôn đời nên những người đi sau phải dựa vào đó. Chúng ta không phủ nhận được các thành tựu nghệ thuật Tiền Hiện đại, nhưng nếu đặt thành tựu ấy không đúng chỗ thì những chuẩn mực ấy lại trở thành lực cản cho sự phát triển.

Hậu Hiện đại vào Việt Nam còn phức tạp và gặp nhiều khó khăn hơn. Nguyên nhân là bởi Hậu Hiện đại là một trào lưu văn hóa chưa định hình, hoặc thậm chí có khả năng là sẽ không định hình. Bởi thế, người nào cũng có quyền có định nghĩa Hậu Hiện đại cho riêng mình. Ở Việt Nam, quá trình tiếp nhận Hậu Hiện đại thông qua rất nhiều hướng khác nhau. Ví dụ như ông Hoàng Ngọc Hiến thì gói gọn Hậu Hiện đại trong “tính dục, vô liêm sỉ và trộn lẫn văn hóa cao thấp”. Có người khác lại coi Hậu Hiện đại là chống lại đại tự sự. Vì lý do này, Hậu Hiện đại không được chính thống ủng hộ. Chính bởi vì các tác giả Việt Nam đa phần không hiểu Hậu Hiện đại ở khía cạnh Triết học mà chỉ hiểu ở góc độ thủ pháp thế nên người ta thấy rằng Hậu Hiện đại không có gì mới, thậm chí còn có vẻ như giống với Tiền Hiện đại. Thế nên, dư luận hoặc là không chấp nhận hoặc là coi thường Hậu Hiện đại. Tuy nhiên, nếu đặt Hậu Hiện đại trong một cơ sở triết học (như đã nói ở trên) thì sẽ thấy rất khác. Bên cạnh đó, Hậu Hiện đại có nhiều yếu tố từ Hiện đại, vì các mầm mống của Hiện đại đã có sẵn trong Hậu Hiện đại rồi. Ví dụ như giễu nhại hay cắt dán thì đã có từ thời của chủ nghĩa Dada. Có nhiều người cho rằng không có Hậu Hiện đại mà chỉ có Hiện đại hậu kỳ, tiêu biểu nhất cho lập luận này là ông Nguyễn Văn Dân.

Trong một bối cảnh như thế, từ Tiền Hiện đại sang Hiện đại vẫn khó khăn hơn Hiện đại sang Hậu Hiện đại bởi vì sự chuyển dịch đầu tiên cần có sự thay đổi thủ pháp rất lớn. Từ Hiện đại sang Hậu Hiện đại, sự chuyển dịch có phần dễ dàng bởi có nhiều sự tương đồng. Chính vì sự dễ dàng ấy nên nhiều tác giả, thậm chí cả nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng lao vào cuộc chuyển dịch này, nhưng thực chất có chuyển dịch được hay không thì lại là vấn đề khác. Thế nhưng, hiện nay số đông đều nghĩ rằng chuyển dịch từ Hiện đại sang Hậu Hiện đại rất dễ bởi vì chỉ cần thay đổi một vài thủ pháp sáng tác, bởi thế các nhà văn, nhà thơ ào ạt chuyển sang Hậu Hiện đại, thế nhưng những cái chuyển đó chỉ mang tính hình thức, bởi chừng nào chưa có được quan niệm thực tại của Hậu Hiện đại thì chưa thể gọi là viết theo Chủ nghĩa Hậu Hiện đại.

Book Hunter: Theo ông có phải chính Internet đã góp phần thúc đẩy Hậu Hiện đại phát triển?

PGS TS Đỗ Lai Thúy: Nhờ có Internet, thế hệ trẻ ở Việt Nam có thể nhanh chóng tiếp xúc được với thế giới và cập nhật được thông tin đa dạng, đa chiều. Điều này khác hoàn toàn với thế hệ trước. Các thế hệ trước thường suy nghĩ theo một kênh định sẵn, người nào phá phách thì cũng chỉ phá phách trong kênh của mình, cùng lắm chỉ nới rộng đường biên của kênh ấy, kể cả có cố gắng đảo ngược dấu thì người đó vẫn ở trong giới hạn đó. Nhưng ở thế hệ trẻ, các bạn không mất nhiều công sức để có thể nhảy từ kênh này sang kênh khác, hay nói một cách khác là có thể tham gia cùng một lúc nhiều kênh khác nhau.

Điều đột phá diễn ra khi có nhiều bạn trẻ không xuất thân trong các ngành Khoa học Xã hội & Nhân văn mà từ nhiều lĩnh vực khác như Khoa học, Công nghệ, Kinh tế… nhưng lại đọc rất nhiều sách về các lĩnh vực này và có khả năng tiếp cận những tri thức mới mà không bị giới hạn bởi các định kiến do sự chuyên nghiệp tạo ra. Thường những người ở trong ngành lại khó khăn cho việc tiếp thu những điều mới bởi vì để có được chuyên môn họ phải trải qua một quá trình bị đào tạo từ thời phổ thông cho đến đại học, dần dần hình thành định kiến. Để có thể tiếp thu được cái mới, họ cần sự chuyển mình rất lớn và không dễ dàng gì.

Qủa là tất cả các ưu thế của Internet đã thúc đẩy Hậu Hiện đại diễn tiến nhanh hơn.

Book HunterNhiều người cho rằng Văn hóa đọc hiện giờ đang xuống cấp. Ông đánh giá sao về nhận định này?

PGS TS Đỗ Lai Thúy: Không thể nói rằng Văn hóa đọc bây giờ kém hoặc không thích đọc, mà chúng ta nên nói rằng người đọc bây giờ bị phân hóa. Người đọc hiện nay rất đông đảo và có sự phân hóa rõ ràng, đây không phải điều đáng lo mà đây là một hiện tượng lành mạnh. Trong số những người đọc ấy dần dần sẽ hình thành những người đọc cao cấp có thể đọc được các sách mang tính học thuật và tri thức mới.

Các thống kê điều tra về số người đọc đều không chính xác vì khi khảo sát người ta đa phần chỉ có thể khảo sát những người mua sách giải trí, còn những người đọc sách học thuật thường không lồ lộ ra để họ có thể khảo sát. Hơn thế nữa, một độc giả theo kiểu tư duy Hậu Hiện Đại vẫn có thể vừa đọc sách giải trí vừa đọc sách học thuật mà vẫn rút ra được các giá trị cho riêng mình. Nên các thống kê đến giờ không còn chính xác và không thể dựa trên các thống kê ấy để nói rằng văn hóa đọc xuống cấp.

Bạn đọc thời xưa thường thống nhất với nhau cao bởi vì họ có cùng một kênh đọc, thế nên khi một quyển sách được xuất bản thì sẽ có số lượng người đọc rất lớn. Do vậy, những nhà quản lý, thẩm định, thậm chí Nhà xuất bản và tác giả đều tưởng rằng văn hóa đọc thời trước cao hơn bây giờ. Chính có sự phân hóa mới là tốt. Vấn đề ở đây là làm sao để gia tăng số người đọc cao cấp lên và làm sao để những người đọc ấy có một hiệu ứng nào đó tác động tới xã hội. Bởi vì xã hội Việt Nam hiện nay không có tầng lớp ưu tú (elite). Ở một xã hội văn minh bao giờ cũng phải có một tầng lớp ưu tú để tạo ra các chuẩn văn hóa cho xã hội. Cụ thể hơn, sẽ có những tác phẩm (sách, tranh, phim ảnh, nghệ thuật trình diễn …v…v…) không nhất thiết dành cho số đông mà chỉ dành cho tầng lớp ưu tú, họ có vai trò thẩm định các tác phẩm này và lúc ấy ngay cả truyền thông đại chúng hay số đông người đọc cũng phải tôn trọng sự thẩm định của họ. Như vậy sẽ tránh được tình trạng “hoa sen xuống dưới, bèo trèo lên trên” như hiện nay. Điều đáng tiếc là hiện nay những người đọc cao cấp chưa tạo ra được hiệu ứng xã hội vì họ chỉ đọc và biết với nhau thôi. Nếu hiệu ứng xã hội được tạo ra, văn hóa đọc của chúng ta chắc hẳn sẽ đi theo hướng lành mạnh hơn.

Book HunterNhưng ông có nghĩ rằng với tình trạng “loạn chuẩn” hiện nay, tầng lớp elite hình thành sẽ khó hơn?

PGS TS Đỗ Lai Thúy: Để hình thành tầng lớp tinh hoa thì trước hết cần phải có sự phân hóa xã hội. Trước năm 1945, các tầng lớp trong xã hội được phân hóa rất rõ ràng: nông dân, công nhân, trí thức, quan chức, binh lính, thương gia… ;và người ta có thể nhận biết các đặc trưng của tầng lớp dễ dàng thông qua trang phục, thái độ, kiến thức, lối sống… Nhưng sau Cách mạng và các cuộc cải cách, các đặc trưng này bị xóa nhòa do sự nhầm lẫn giữa thái độ và đối xử bình đằng với việc cào bằng tất cả mọi tầng lớp. Nhiều người nông dân, công nhân lại ngồi vào vị trí của thương gia, quan chức thậm chí là trí thức… vậy nên dù địa vị xã hội được xác lập nhưng thái độ, kiến thức, tư duy… lại chưa theo kịp. Quãng thời gian để “theo kịp” có lẽ cần vài thế hệ để sự phân hóa mang tính ổn định, khi trình độ văn hóa tương ứng với địa vị.

Mặc dù tầng lớp ưu tú đa phần xuất thân từ giai cấp thượng lưu nhưng tầng lớp ưu tú vẫn là một tầng lớp phi giai cấp. Không có nghĩa những người thượng lưu là những người ưu tú. Những người ưu tú thậm chí xuất thân từ các giai cấp thấp hơn, nhưng trước tri thức các con người đều bình đẳng.

Book HunterCó vẻ như trong xã hội hiện thực, chúng ta đi theo Tiền Hiện đại, nhưng trong tư tưởng lại diễn ra bước chuyển dịch sang Hậu hiện đại?

PGS- TS Đỗ Lai Thúy: Đó là một sự thay đổi quan niệm lớn trong xã hội. Mỗi lần sự chuyển dịch diễn ra thường dẫn đến những sự xung đột vô cùng lớn. Bởi không phải ai cũng chấp nhận sự chuyển dịch này. Một người thường bị gắn bó chặt chẽ với Hệ hình cũ bởi quá trình tiếp nhận kiến thức từ bé cho đến lớn, gắn bó bởi các thành tựu, quyền hành, lợi ích mà bản thân có được do đi theo Hệ hình cũ. Không dễ gì để một người theo Hệ hình tư duy cũ có thể thoát khỏi cái Tôi của chính mình, vì khi thay đổi quan niệm, có thể rằng họ sẽ mất hết cả sự nghiệp và thành tựu. Chỉ có những người nào dũng cảm, yêu mến sâu sắc Sự Thật thì mới có đủ dũng cảm để vứt bỏ những quan niệm cũ của mình để tìm hiểu cái mới. Tuy nhiên, thế hệ trẻ mà cụ thể là tầng lớp 8X, 9X có sự thuận lợi hơn bởi các bạn chưa có những sự ràng buộc chặt chẽ với Hệ hình cũ như những người đi trước.

Lý thuyết Hệ hình giúp chúng ta nhìn thế giới trong sự vận động, mô tả được vận động đó mà không sợ những sự đứt đoạn giữa các thế hệ. Bởi chính sự đứt gãy là những dấu hiệu cho sự thay đổi. Để đánh giá về 8X, 9X, nếu những người đi trước đứng trên cơ sở của quan niệm Tiền Hiện Đại, thậm chí là Hiện Đại thì sẽ thấy các bạn trẻ đúng là một Thế hệ vứt đi. Nhưng nếu những người thuộc thế hệ của tôi nhìn họ như những con người thuộc Hệ hình tư duy mới thì sẽ thấy sự khác biệt ở họ là một hiện tượng đầy tích cực.

Trong xã hội kinh nghiệm Tiền Hiện đại, các tầng bậc tôn ti trật tự phần nhiều dựa vào tuổi tác. Xã hội kinh nghiệm quan niệm rằng những người càng lớn tuổi thì càng có nhiều kiến thức, càng sáng suốt và họ có vai trò dẫn dắt đám trẻ. Nhưng ở xã hội hiện đại, tuổi tác trở thành cản trở. Người càng già đi bao nhiêu, sự tiếp thu cái mới càng kém hơn. Vì thế, đứng ở góc độ mới thì giới trẻ lại giữ vị trí tiên phong. Trong giới học thuật hiện nay, nhiều học giả vẫn còn giữ thái độ cha chú để đánh giá về giới trẻ, đây thật sự là một sai lầm. Chúng ta có thể thấy, nhiều trí thức cứ cố gắng gắn tên tuổi của mình với thế hệ khác, chẳng hạn như nhận mình là học trò của các học giả lớn đã quá cố và đi đâu cũng vỗ ngực tự hào về điều này, hoặc cố gắng phấn đấu để giỏi hơn thày; trong khi với các học giả trẻ thì họ lại tách biệt và có phần nào coi thường.

Nhưng thực tế là trong giai đoạn chuyển dịch, các học giả đi trước càng tiếp xúc và học hỏi từ những người đi sau thì lại càng khá. Trong lịch sử Việt Nam đã có hiện tượng này, ví dụ như ông Trương Vĩnh Ký, cùng thế hệ với Phan Đình Phùng – những nhà Nho khởi nghĩa, nhưng lại có tư tưởng cùng với thế hệ sau đó là “đám trẻ” Phạm Quỳnh, Phan Chu Trinh… và ông trở thành người đi trước thời đại. Hay như ông Nguyễn Văn Vĩnh sinh ra cùng thời với Phạm Quỳnh, Phan Chu Trinh nhưng lại có tư tưởng hiện đại hóa đất nước theo hướng Âu Châu mà Nhất Linh đề ra. Họ đều là những người vượt trước thời đại nhờ quyết định đồng hành với thế hệ trẻ. Khi một Hệ hình mới ra đời thì sau đó sẽ bước vào giai đoạn hoàn thiện Hệ hình, tức là những người tiên phong trong Hệ hình đó phải xây dựng các chuẩn mực của Hệ hình mới và thuyết phục những người thuộc Hệ hình cũ gia nhập, đẩy Hệ hình đó lên đỉnh cao bằng chính thành tựu của bản thân mình.

Book HunterXin cảm ơn PGS-TS Đỗ Lai Thúy! Hi vọng rằng trong thời gian sắp tới thế hệ trẻ, với sự giúp đỡ của những người đi trước có thể tạo ra đột phá và hoàn thiện Hệ hình Hậu Hiện đại ở Việt Nam.

Hà Thủy Nguyên thực hiện

Home 2021 / page 2

Tiểu thuyết lịch sử cần vượt ra khỏi biên giới Việt Nam (Trả lời phỏng vấn báo Pháp luật Việt Nam)

Là  một người đã chuyên tâm nhiều năm viết tiểu thuyết dã sử, Thủy Nguyên đánh giá thế nào về tiểu thuyết lịch sử hiện tại?

Có lẽ chưa bao giờ ở Việt Nam lại có cả một trào lưu viết tiểu thuyết lịch sử vừa phong phú, vừa đa dạng như hiện nay, bao gồm cả những người viết hàn lâm và người viết đại chúng. Và khi đi vào số nhiều, thì tiểu thuyết lịch sử không tránh được những trường hợp chất lượng kém như thiếu kiến thức lịch sử – văn hóa, đạo văn, viết sai ngữ pháp tiếng Việt…

Tuy nhiên, ở khía cạnh tích cực, đó là tiểu thuyết lịch sử đã có nhiều hình thức biểu hiện mới, nhiều chủ đề mới, cho dù là tiếp thu một cách học thuật và bài bản từ các tiểu thuyết lớn trên thế giới hay là học hỏi từ các xu hướng tiểu thuyết thịnh hành ở Trung Quốc như đạo mộ, ngôn tình, cung đấu… Tôi cho rằng, phát triển đa dạng là điều tốt, tác phẩm hay sẽ còn đọng lại với độc giả, tác phẩm dở sẽ bị thời gian sàng lọc.

Xu thế người trẻ viết dã sử có phải là mốt hay là khám phá mới?

Năm 2004, khi cuốn tiểu thuyết dã sử đầu tiên “Điệu nhạc trần gian” của tôi được xuất bản, tôi là tác giả trẻ duy nhất bước vào lĩnh vực này. Ngẩng đầu lên, toàn là các cây đại thụ như Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo…

Còn bây giờ thì, số lượng các cây viết trẻ viết tiểu thuyết dã sử đã đông tới mức không thể thống kê được, bởi họ không chỉ xuất bản sách mà còn đăng tải sáng tác của mình trên mạng xã hội. Có thể nói rằng, giờ đây, viết tiểu thuyết dã sử thực sự như một thứ mốt thời thượng rồi.

Mốt này có lẽ ảnh hưởng từ xu hướng tiểu thuyết mạng của Trung Quốc, và kết hợp với tinh thần dân tộc hiện nay đang được đẩy mạnh trên truyền thông. Hầu như các tác giả trẻ khi chọn viết tiểu thuyết lịch sử hay dã sử, họ đều ý thức được rằng họ đang góp một phần để kích thích giới trẻ hiểu thêm về lịch sử Việt Nam thay vì chỉ biết đến lịch sử Trung Quốc.

Đôi khi, mong muốn của họ phát triển kỳ lạ đến mức sáng tác truyện hoặc phim lấy chất liệu từ sử Việt mà lại như tiểu thuyết mạng của Trung Quốc. Một phần có lẽ bởi văn hóa Trung Quốc và Việt Nam (đặc biệt là miền Bắc) có nhiều điểm tương đồng, một phần bởi họ đang trong quá trình học các thủ pháp của tiểu thuyết mạng Trung Quốc. Tôi cho rằng điều này dễ hiểu và không nên quá lên án nhưng cũng không nên cổ vũ, mà nên khuyến khích họ có những sáng tạo của riêng mình, thay vì bắt chước.

Tiểu thuyết “Điệu nhạc trần gian” – cuốn tiểu thuyết dã sử đầu tay của Hà Thủy Nguyên, dày 939 trang, được xuất bản năm 2005, NXB Phụ Nữ.

Chất lượng tiểu thuyết lịch sử có gì đáng báo động hay gợi mở ra điều thú vị cho văn học Việt Nam?

Tôi không cho rằng chất lượng tiểu thuyết lịch sử hiện nay là đáng lo ngại, nhưng còn về sự gợi mở thì tôi không dám chắc, vì để tiểu thuyết lịch sử có những bước tiến lớn đóng góp cho nền văn học Việt Nam đương đại thì đòi hỏi nhiều yếu tố lắm.

Trước hết là cách nhìn nhận của các nhà phê bình văn học. Họ sẽ dựa trên tiêu chí gì để đánh giá một tiểu thuyết lịch sử là hay, là có giá trị? Đây là vấn đề vừa cá nhân lại vừa đáng để bàn cãi công khai.

Thứ nữa là trình độ và tầm cỡ của các tác giả trẻ. Họ sẽ chọn cách là người minh họa lại lịch sử hay là người mượn lịch sử như một bối cảnh để các ý tưởng của mình được thể hiện? Họ sẽ đánh đổi những gì để phản ánh một quan điểm lịch sử trong cuốn tiểu thuyết của mình?

Cho nên, tôi chỉ ghi nhận rằng có một hiện tượng người trẻ hứng thú với tiểu thuyết lịch sử, còn về hậu quả của hiện tượng ấy sẽ dẫn đến điều tốt hay điều xấu thì không thể đánh giá một chiều được.

Sao Thủy Nguyên lại chọn con đường tiểu thuyết lịch sử, phải chăng lịch sử có nhiều điều cần mở ra?

Tôi chọn con đường tiểu thuyết lịch sử, như nhiều lần tôi đã chia sẻ, là bởi tôi cảm thấy gần gũi với những bối cảnh, những cá tính, những nỗi niềm của người thời xưa hơn là thời nay.

Thứ nữa là vì khi đọc lịch sử, có quá nhiều câu hỏi, quá nhiều giả thuyết nảy ra trong đầu tôi, nhưng tôi lại không thể viết chúng ra với tư cách là một nhà nghiên cứu lịch sử được, bởi vì khi viết với tư cách là một nhà nghiên cứu, tôi phải đảm bảo các yếu tố khoa học khách quan. Vì vậy, viết tiểu thuyết lịch sử là lựa chọn hợp lý nhất để tôi phản ánh quan điểm của mình về một sự kiện lịch sử.

Tiểu thuyết “Thiên địa phong trần”- Tập 1: Khúc Cung Oán của nhà văn Hà Thủy Nguyên

Tiểu thuyết “Thiên địa phong trần” mới ra mắt của Hà Thủy Nguyên phải chăng mở ra nhân vật Vua Lê Chiêu Thống, một nhân vật được gán ghép là “bán nước”?

Tôi bắt đầu viết “Thiên địa phong trần” sau 10 năm tạm rời xa tiểu thuyết lịch sử để thử nghiệm với nhiều thể loại khác, và cũng để trang bị cho mình thêm nhiều kiến thức khác về triết học, văn hóa, lịch sử, tôn giáo, chính trị… , cùng một điều quan trọng khác: vốn sống. Những gì tôi trải qua đã dạy cho tôi thấy một điều rằng, một sự việc cần phải được nhìn nhận dưới nhiều góc độ.

Người ta nói rằng Lê Chiêu Thống bán nước, nhưng khái niệm “bán nước” cần phải xem xét, thế nào là “bán nước”? Nếu ông ta thực sự bán nước, tại sao vẫn có nhiều bậc trung can nghĩa đảm sẵn sàng trung thành với ông ta, họ ngu trung cả ư?

Về sau, tôi được đọc cuốn “Lê mạt sự ký” của Nguyễn Duy Chính, tôi càng thấy rằng xoay quanh ông vua bán nước này quả thực là một tấn bi kịch lớn. Nhưng tôi viết “Thiên địa phong trần” không chỉ để minh oan cho Lê Chiêu Thống, tôi viết để cố cắt nghĩa về thời loạn và phân tích cách lựa chọn thái độ của các trí thức trước thời loạn. Đó là lý do tôi chọn Nguyễn Gia Thiều, tác giả của “Cung oán ngâm khúc” làm nhân vật chính chứ không phải là Lê Chiêu Thống.

Nếu anh hỏi tôi rằng có phải cuốn sách sẽ gợi mở ra điều gì đó về Lê Chiêu Thống, thì tôi phải trả lời rằng tôi mong muốn gợi mở ra nhiều điều hơn thế. Trước hết là về các nhân vật lớn của thời đại nhưng lại bị lịch sử bỏ qua như Nguyễn Khản, Nguyễn Gia Thiều, Ngô Thì Chí…

Sau là tôi mong muốn người đọc có cái nhìn nhận khác về loạn thế. Loạn thế không phải chỉ là chiến tranh xung đột mà là lòng người không còn quan tâm tới điều đúng đắn nữa, và những con người tốt đẹp thì chỉ là nạn nhân thậm chí là tác nhân của loạn.

Trong thời gian gần tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sẽ đi theo hướng nào?

Tôi không muốn tiên tri về hướng đi của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam, bởi vì dự đoán chính là góp một phần vào thúc đẩy theo chiều hướng nào đó.

Nhưng tôi có thể nói tiểu thuyết lịch sử cần gì. Tiểu thuyết lịch sử cần những cây viết sẵn sàng mạo hiểm vào những đề tài khó, những đề tài vượt ra ngoài khuôn khổ của các cuốn chính sử, thậm chí vượt ra khỏi biên giới Việt Nam. Và cho dù các cây viết khác có sẵn lòng lao vào các khó khăn này hay không thì tối thiểu sẽ có tôi lao vào đó, trong một tương lai gần thôi.

Chúc Hà Thủy Nguyên thành công!

Thực hiện phỏng vấn: Phóng viên Nguyễn Tuấn Ngọc

Bài được đăng trên báo Pháp luật Việt Nam

Home 2021 / page 2

Say rượu một cõi mù mờ nơi thơ

Nhà thơ tìm đến say để gỡ bỏ lớp lý trí. Ái tình mang đến say đau đớn, thuốc phiện mang đến say mộng ảo, nhưng rượu mang đến say cuộc đời. Trong muôn loại say, say rượu có đủ muôn hình vạn trạng, bởi say rượu là một cách để tách khỏi đời sống mà không bước ra khỏi đời sống, trải nghiệm mọi thang bậc của đời sống mà không tầm thường theo nó. Nhà thơ say rượu như một trạng thái tự xóa mình khỏi tồn tại (mà bất thành), còn kẻ tầm thường say để cố thoát khỏi sự tầm thường.

Omar Khayyam trong một lần say giữa chốn hoang vu, hẳn đã vỗ nhịp:

“Một Ổ Bánh Mỳ dưới tán cây

Rượu đầy vò, Thánh Kinh của ta đây

Cùng nhau điệu Hoang Vu ta hát

Chợt thấy Thiên Đàng giữa điệu say.”

Rượu tách nhà thơ khỏi cõi đời cơm áo gạo tiền, giữ nhà thơ chìm đắm trong thế giới tinh thần. Trong cơn say rượu, nhà thơ quên mất những cơn đói vật vã và những vọng tưởng về địa vị trần gian. Nhà thơ không giống như Jesus hay Thích Ca, chối bỏ ngôi báu trần gian vì sẵn biết địa vị tối cao của bậc chứng ngộ giữa muôn trùng vũ trụ, họ biết mình vẫn đang đứng trên mặt đất và mù mờ về vũ trụ. Sự mù mờ ấy khiến họ không cam tâm bước một chân vào cõi đời, nhưng cũng chẳng dám bước chân kia ra ngoài thế giới. Giằng co trong mù mờ là giằng co quằn quại nhất. Rượu khiến nhà thơ an tâm tận hưởng trạng thái mù mờ, tìm được khoái cảm trong cơn quằn quại. Và bởi thế, nhà thơ một phần vừa tự mắc kẹt, một phần trải nghiệm được tận cùng cõi giới mù mờ.

Trong cõi giới mù mờ ấy, sự hòa trộn của bản năng hoang dã và trùng trùng nỗi niềm nhân sinh đã tạo nên một nhân cách hoàn toàn khác của nhà thơ (có lẽ khi ấy không còn là nhà thơ nữa). Trong trạng thái say rượu, cái danh “nhà thơ” biến mất, chỉ còn thơ tồn tại. Thơ cũng là một dạng thức của mù mờ, nơi thực và ảo không thể phân định và không tồn tại đúng với những định danh. Không còn người say, chỉ còn thơ say. Giữa mù mờ ấy, thơ say say thơ là phúc lạc Thiên Đàng – thứ phúc lạc của những thiên thần sa ngã khổ đau lạc lối bỗng chốc nhân thấy phẩm tính Thiên Đàng chưa bao giờ rời bỏ bản thân, bởi bản thân chính là Thiên Đàng. Và bởi thế, sự đau đớn hay niềm vui nơi say thơ thơ say đều đẹp tuyệt.

Rumi – bậc thầy của say đã thơ lên thế này:

“Rượu chúng ta uống chính là máu ta.

Cơ thể ta lên men trong thùng rượu

Ta đánh đổi tất cả để lấy ly rượu này

Ta đánh đổi lý trí để nhấp một ngụm say.”

Sự đánh đổi ấy về bản chất là đánh đổi cuộc đời thế tục vốn được coi là tỉnh táo để lấy được khoảnh khắc bất thường, nếu không muốn nói là điên rồ trong con mắt người thường. Thơ say tương đồng với cơn khủng hoảng tiền tâm linh điên rồ (thuật ngữ dùng của Roberto Assagiolie), khi một người biết mình không thuộc về thế tục nhưng cũng chẳng thuộc về thế giới thần thánh cao với, khi một người chấp chới bay chẳng muốn đậu xuống bất cứ đâu, và trong trạng thái bay ấy – hay còn gọi là say, họ cảm thấy tự do. Bởi thế say rượu trở thành một chứng nghiệm tâm linh mạnh mẽ, khi nhà thơ chưa phải là toàn thể mà chỉ ngắm nhìn và ngất ngây trước toàn thể bằng một con mắt, còn con mắt kia vẫn chứng kiến thế giới thực méo mó và quái đản. Nhà thơ trong trạng thái say rượu đã nhìn thế giới bằng hai con mắt, trong khi người phàm thì đui mù còn các bậc thánh thì chẳng cần dùng tới mắt.

Và bởi thế, nhà thơ đã phát điên:

“Tôi đã chứng kiến những bộ não vĩ đại của thế hệ mình bị hủy hoại trong sự điên rồ, bị bỏ lại trần truồng trong loạn trí,

tự chôn vùi bản thân trên những con phố nhem nhuốc vào buổi bình minh để tìm kiếm sự cứu rỗi đầy phẫn nộ

những thiên thần cuối cùng thiêu rụi mối dây nối thiên đường cổ xưa với cỗ máy lốm đốm sao sáng trong động cơ ban đêm

những người khốn khổ và rách rưới với đôi mắt trống rỗng phì phèo điếu thuốc trong bóng tối siêu nhiên đang trôi chảy như dòng nước mát lạnh trên nóc thành phố theo điệu jazz

những người mở rộng trí não tới Thiên đường dưới sự che chở của Đấng Duy Nhất và thấy các thiên thần của Mohammed chấp chới thắp sáng trên những mái nhà

những người dạo chơi giữa vũ trụ với đôi mắt rạng rỡ với ảo tưởng bi kịch Arkansas và ánh sáng của Blake giữa các học giả thời chiến

những kẻ bị trục xuất khỏi viện hàn lâm vì sự điên rồ và rêu rao khúc du ca khiêu gợi xuyên thấu qua cửa sổ trí não,

những kẻ khỏa thân tự thu mình trong phòng trống, đốt tiền trong thùng rác và lắng nghe nỗi khủng khiếp trên tường,

những kẻ thất bại trong xã hội lề thói quay lại Laredo bằng một điếu cần sa ở New York

những kẻ nuốt lửa trong khách sạn và uống nhựa thông ở Paradie Alley, chết, hay tự thú tội hết đêm này sang đêm khác

với cơn mơ, ma túy, thức tỉnh khỏi ác mộng, rượu và tiếng gà và quả bóng lăn vô tận

những con phố tối tăm rùng rợn phủ đầy mây và ánh sáng trong tâm trí dẫn dắt đến mũi Canada và Paterson, thắp sáng thế giới Thời gian ngưng đọng…”

Allen Ginsberg đã “Tru” trong cơn say cùng với Beat Generation vào một đêm Jazz rượu lẫn lộn ma túy. Tru để gọi bầy – những kẻ say giữa cuộc đời. Tru để giải phóng cơn say. Tru để kéo dài cơn say, bởi chỉ cần mặt trời lên, hơi rượu đã hết, ma túy cũng nhạt, thì đã tỉnh – mà tỉnh ở đây, chẳng qua là thực tại trói buộc trong thế giới hiện đại với dãy phố đông nghịt người cùng với thứ công việc mưu sinh nhàm chán và những mối quan hệ lờ nhờ. Nên say chính là thơ. Con mắt chứng kiến cõi đời ấy mở quá to, đến mức phải tru, tru lên, tru nữa để đi sâu vào vô trí, gượng đóng con mắt ấy lại nhưng nó vẫn nheo nheo thấy vạn vật. Bi kịch! Bạn biết đấy, hãy thương cho những nhà thơ hô hào kẻ khác hãy say, thực ra họ khao khát cơn say tột độ, khi mà hai con mắt đều trừng trừng mở về hai cõi giới mà chẳng thiên lệch bên nào. Lúc ấy, hình thù đổi muôn vạn vẻ, xúc cảm nhào nặn hỗn hợp, thực tại đa chiều trùng biến.

Tôi là một kẻ khó để say, đặc biệt là say rượu. Trong cơn say rượu, tôi chỉ thấy lòng mình lạnh lẽo. Tôi bị kéo tụt về phía u tịch, nơi đau đớn lên ngôi. Trong cơn say tôi hoài nghi tất thảy, kể cả cõi đời và cõi tinh thần. Mở hai con mắt đưa tôi vào một trạng thái tỉnh đáng sợ: đối diện với mọi bóng tối trong mình, mọi nỗi đau mình đi qua, mọi ký ức rõ ràng tái hiện.

“Rút đao chém nước nước vẫn chảy,

Nâng chén tiêu sầu sầu thêm sầu,

Sống giữa cõi đời không đắc ý

Mai này xõa tóc cưỡi thuyền chơi.”

Lý Bạch hiểu cơn say của tôi… à không, tôi đã say cùng cơn say với Lý Bạch, … nên tôi có thể thấy được cái danh ngàn chén không say của Lý Bạch chẳng qua là bởi say quá hóa tỉnh, tỉnh quá hóa đau, đau quá hóa thơ. Các nhà thơ Á Đông luôn đi qua một chặng đường tâm lý trúc trắc này, không còn là khủng hoảng tiền tâm linh, mà là một thứ khủng hoảng của người giời bị đầy xuống trần gian – của con người tâm linh – người giời bỗng chốc bị vứt vào đời sống hữu hạn, nhận thức được hư vô để đắm đuối thêm cuộc hư vô.

 “Giàu sang trước mắt tựa khói mây

Đời nay chỉ cười đời xưa thôi

Người xưa mộ đã ngổn ngang đầy

Xưa nay hiền ngu trơ nấm đất

Tử sinh ai vượt ải này đây

Khuyên người uống rượu chơi cho đã

Cửa tây vầng dương đã xế rồi.”

Nguyễn Du đa sầu đa cảm đó. Sầu ấy, cảm ấy, thiếu rượu làm sao mà chịu đựng nổi. Rượu là chất dẫn để nhà thơ đến gần cuộc đời mà không phải đưa tay che mắt thương xót cho phận người trầm luân đau khổ. Dưới ánh nhìn của rượu, ngay cả khổ đau rồi cũng chỉ là một cuộc chơi.

Mà không chỉ thi tiên, thi thánh Đỗ Phủ cũng tìm say. Người đời mải với cơn say của tiên thi vì bị ám ảnh với câu chuyện Lý Bạch say rượu bỡn Đường Minh Hoàng, lại còn đổi thơ lấy rượu, mà sau này nghe đâu cũng trong một đêm say nhảy xuống ao ôm vầng nguyệt, mà người đời không biết rằng trong thơ của thi thánh cũng sực nức mùi rượu nồng men ủ từ cơn lạ lùng với cuộc đời:

“Một mảnh hoa bay xuân đã phai

Gió bay vạn nẻo khách sầu ai

Tàn hoa cứ ngắm cho lòng thỏa

Say rượu chớ từ kẻo đau hoài

Trên sông nhà nhỏ chim làm tổ

Bên vườn mả cũ ngựa nằm dài

Ngẫm đời phải lẽ nên hành lạc

Cớ gì danh lợi vướng thân đây.”

Cái say của thi thánh khiến ông chỉ còn là thi thôi, không còn là thánh. Này thì Khổng Tử, này thì danh lợi, này thì chí khí tang bồng, chẳng qua cũng chỉ là gió bay hoa rụng. Cơn say rượu  bỗng chốc trở thành thứ duy nhất có ý nghĩa trong cuộc đời – cơn say cùng khoảnh khắc bình an này, để tạm quên vạn sự đang đuổi nhau chốn quan trường khốc liệt. Trận say của Đỗ Phủ, ô kìa lại cùng với trân say của Allen Ginsberg, nhưng Đỗ Phủ không tru lên, chỉ đơn giản là say thôi. Cần gì phải tru gọi bầy khi vạn vật đã cùng ông say trong khoảnh khắc này.

Đấy, cứ thế, hết thế hệ nhà thơ này đến thế hệ khác, từ Tây sang Đông, bao giờ chả có kẻ say. Nhà thơ say nối đuôi nhau, liêu xiêu muôn vẻ, tụng gọi nhau trong  những đêm tịch mịch đơn côi, mời bạn rượu quá cố ngàn đời cùng nâng chén.

“Hồn hỡi hồn!

Nào đâu xứ cô đơn hồn ngự?

Nào đâu nơi lữ thứ hồn đi?

Phóng tâm ta đón hồn về

Đắm say mỗi sớm, điên mê từng chiều

Hồn hỡi hồn!

Hồn bắc nhịp phù kiều trong rượu

Hồn gợi câu “tiến tửu” bên hoa

Hồng tô sắc mặt dương hoà

Tiếng cười rạn cốc, lời ca nghiêng bình

Hồn ngồi với Lưu Linh cuồng khách

Hồn nhập vào Lý Bạch trích tiên

Hồn xoay đổ núi ưu phiền

Đốt tình cháy lửa cho quên Dáng Tình

Hồn nhốt trí phù sinh vào hũ

Hồn khép tay thế sự trong vò

Gào to một tiếng: ô hô!

Của ai này những cơ đồ không tên!”

Một thiên “Thần tụng” của Đinh Hùng ấy mà. Trong cuộc ngả nghiêng, Đinh Hùng nhập vào cõi khác, nơi những tiên thánh thơ ca ha hả cười trong cơn khoái cảm quằn quại giữa mù mờ. Có lần uống rượu mãi chẳng say, tôi đứng giữa bốn bề gió lộng trên cầu Long Biên, ngâm thiên “Thần tụng”, lúc ấy mới cảm giác thấy cơn say. Hóa ra say là say thơ chứ nào đâu say rượu.

Lại quay về cái sự không thể say của tôi. Đồ chừng tại bởi tôi quá thảm hại không bứt mình ra khỏi tục lụy. Mà có khi tại bởi tôi không đủ quằn quại để đạt được cơn khoái cảm trong cõi mù mờ. Lạc quan hơn, có lẽ vì tôi sống một đời sống say toàn bộ, chưa bao giờ tỉnh, nên làm gì còn tồn tại cơn say giữa một đời sống say miên viễn. Đây có thể chỉ là một trạng thái tự sướng.

Hôm nay tôi lại uống chén rượu không thể say mà tâm tư thì vạn vạn lớp đồng hiện. Ngôn ngữ tù túng mà ý lại triền miên, chẳng khác nào cố rót cả thùng rượu to vào một ly nhỏ (mượn tứ của Rumi ấy mà), thế thì cơn say cũng thế, sao phải trói mình vào trạng thái say rượu của cổ nhân, có khi từ lâu tôi đã có cơn say của chính mình.

“Rượu này a…say sao mà

Này trời a … phố nghiêng đèn đổ

Ta này a… nhạt mãi chẳng thành cơn

Ta điên a… cười mặt nạ mất màu”

Thơ tôi đấy! Ngàn chén không say thơ vậy thôi!

Hà Thủy Nguyên

*Các bài thơ trong bài đều do Hà Thủy Nguyên dịch.

*Tranh minh họa của Y Xuy Ngũ Nguyệt