Home 2019 / page 7

Cứt đái

Iả..

Đái…

Thiền định…

Sáng tác

Thay đổi thế giới

Same shit different ways…

 

Sáng lại sáng lại sáng

Thoát khỏi cơn mơ không có thật

(Hoặc thật theo những cách khác nhau)

Tôi đã móc họng

Nôn mửa ngày hôm qua

Nhầy nhụa

Bốc mùi

Chua loét

Lẫn vài vệt máu của một kẻ tự cào xước chính mình

Không đủ

Cố rặn những cục cứt quá khứ

Não tôi sẽ toàn cứt nếu táo bón

Sáng hôm nay sẽ chỉ là đống cứt của hôm qua.

 

Thế giới nhiều kẻ táo bón

Chạy trốn vào các cơn điên

Lúc này ở Hồng Kông, người dân đang cần đi ỉa

Biểu tình cũng là một cuộc đi ỉa tập thể mà thôi…

Hơi cay của cảnh sát

Cú đánh rắm bức bối của những kẻ không thể ỉa được

Thế giới nơi tôi đang sống

Cuộc chiến của những kẻ ỉa chảy và những kẻ táo bón

Họ không thể ỉa theo bản năng của mình

Họ nhịn ỉa đã quá lâu

 

Thế giới nơi tôi đang sống

Họ chạy trốn vào Thiền định

Okay, bạn không thích từ ỉa

Hãy nhớ về cảm giác đi đái

Xè xè tuôn chảy

Mọi vận động đều dừng lại

Các bậc chứng ngộ gọi đó là dòng sông tự tuôn chảy trong mình

 

Thế giới nơi tôi đang sống

Nhịn ỉa là đạo đức

Nhịn ỉa là tư tưởng

Nhịn ỉa là nền văn minh

Người ta ném cứt vào mặt nhau

Rồi gọi đó là ý tưởng

(Giống như điều tôi đang làm đây)

Tôi cũng đang ném những đống cứt vào mặt các bạn và mong muốn rằng các bạn thích nó

Các bạn không khác những con ruồi

Những con ruồi cũng phải ỉa

Cứt của tôi trở thành cứt trong bạn trở thành cứt của một ai đó cứt của thế giới miên viễn cứt

Mọi người đều cần đái trong lúc ỉa

Thiền định ra đời

Iả trở nên trơn tru hơn….

 

Hãy ỉa theo cách của mình

Hãy đái theo cách của mình

Hãy đánh rắm theo cách của mình

Mặc kệ mùi hôi thối

Thế giới nơi tôi sống

Được tạo nên bởi xú uế

Xú uế sẽ trở về cùng xú uế

Cứt của tôi và cứt của bạn thì có khác quái gì nhau?

 

Ôi đống cứt này

Độc ác thay

Tôi không thể từ bỏ

Khi ngửi đống cứt của ai đó

Tôi thấy mùi của mình

Mùi của những ngày tháng nặng nhọc kéo lê chờ đợi ngày tận thế

Mùi của khát khao những cái ôm

Mùi của một cảm giác đánh mất bản thân mình

Mùi của tham vọng hủy diệt thế giới bởi quá yêu thế giới

Mùi của tôi

Hoặc đống cứt của ai đó đã vứt sang tôi

 

Aha!

Sung sướng thay!

Tôi ỉa ra linh hồn

Linh hồn chỉ là đống cứt vĩ đại tự khoác lên mình vỏ bọc thần thánh rồi thôi miên đám ruồi nhặng

Iả mãi sẽ đau đít

Cũng không nhiều cứt đái đến vậy

Thôi đành giật nước xả trôi

Ngày này qua ngày khác rồi lại ngày

 

Thế giới nơi tôi đang sống

Bao giờ hết ỉa đái

Bao giờ các vị giật nước và xả trôi sự điên rồ?

Này thì giật nước!

 

Hà Thủy Nguyên

(Sáng tác nhân một lần dân Hongkong biểu tình, và lần này đăng lại, cũng nhân một dịp người Hongkong biểu tình.

Home 2019 / page 7

Lời tôi và mưa rơi

Lời tôi
Ai đã đánh rơi
Nơi gió thoảng
Như nụ hôn
Vừa thoáng qua môi

Làn môi tôi mong mỏng
Trăng lưỡi liềm đọng máu
Buột rơi lời
Ma thuật lên ngôi
Đã quên tình yêu nơi môi ai đó
Mọng đam mê

Lời tôi
Sương đọng hồng nhung
Tục khách chẳng ngó ngàng
Hơi bay vô dạng
Mây mưa

Lời tôi
Đã ướt áo ai chưa?
Người lạ đi qua sầu lo
Có nghe mưa sũng tóc
Và trăng ám hơi
Nơi khóe miệng
Buột lên lời tôi
Mỉm cười

Tôi đã quên những lời
Để được là nụ hôn
Đặt bờ môi mảnh trăng
Vào một bờ đam mê
Không là gió
Để là mưa
Ướt sũng trần gian
Trong chiều tàn
Để tình yêu
Chẳng là lời
Gió thoảng

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 7

Tại sao tôi viết? – George Orwell (1): Động lực của nhà văn

Từ khi ít tuổi, có lẽ là năm hay sáu gì đó, tôi đã biết rằng khi tôi lớn lên tôi sẽ trở thành một nhà văn. Trong quãng từ mười bảy đến hăm tư tuổi tôi đã cố từ bỏ ý định này, nhưng tôi thực hiện điều đó với ý thức rằng tôi đang lăng mạ bản chất đích thực của mình và dù sớm hay muộn tôi sẽ ngồi xuống và sáng tác.

Tôi là đứa thứ hai trong số ba anh em, nhưng tôi kém anh cả và hơn em út những 5 tuổi, và tôi gần như không được thấy cha mình cho tới khi tôi tám tuổi. Vì lý do này và một vài nguyên nhân khác tôi khá đơn độc, và sớm hình thành lối sống bất tuân khiến tôi không được yêu quý trong suốt thời đi học của mình. Tôi có thói quen của một đứa trẻ cô đơn khi tạo nên các câu truyện và dựng nên những cuộc đối thoại với những người tưởng tượng, và tôi nghĩ rằng ngay từ ban đầu niềm đam mê văn học của tôi đã được trộn lẫn với cảm giác cô độc và bị đánh giá thấp. Tôi biết rằng tôi có lợi thế trong sử dụng ngôn từ và một năng lực đối mặt với những sự thật phũ vàng, và tôi cảm thấy rằng điều này tạo ra một dạng thế giới riêng tư mà trong đó tôi có thể lấy lại thế giới của riêng tôi vì những thất bại trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên tập hợp những bài viết nghiêm túc – đúng hơn là có ý định một cách nghiêm túc – mà tôi viết ra trong suốt thời thơ ấu và niên thiếu của mình chẳng đến sáu trang giấy. Tôi đã viết bài thơ đầu tiên lúc bốn hay năm tuổi, mẹ tôi mang ra để soát chính tả. Tôi không thể nhớ chút nào về nó ngoại trừ nội dung của nó về một con hổ và con hổ có “răng giống ghế” – một cụm từ đủ hay, nhưng tôi nghĩ rằng đây là một trường hợp đạo thơ bài “Hổ này hổ” (Tiger, tiger) của Blake. Ở tuổi mười một, khi thế chiến 1914 – 1918 nổ ra, tôi đã viết một bài thơ yêu nước và được in trên tờ báo địa phương, cũng như vài bài khác hai năm sau đó về cái chết của Kitchener. Thi thoảng, khi tôi lớn hơn một chút, tôi cũng viết những bài thơ thiên nhiên dở tệ theo đúng phong cách của George và thường chẳng bao giờ hoàn thành được. Tôi cũng đôi lần cố gắng viết những truyện truyện ngắn mà đó là một thất bại khủng khiếp. Đó là tổng cộng tất cả những gì nghiêm túc mà tôi đã tực sự viết trong suốt những năm tháng ấy.

Dù sao đi nữa, trong suốt tời gian này tôi đã tham gia vào các hoạt động văn chương. Bắt đầu với những thứ được sản xuất theo đơn đặt hàng mà tôi đã thực hiện rất nhanh chóng, dễ dàng và không vui vẻ gì. Ngoài công việc ở trường, tôi đã viết thơ, những bài thơ minh họa mà tôi có thể bật ra với tốc độ đáng kinh ngạc – ở tuổi mười bốn tôi đã viết hẳn một vở kịch thơ, bắt chước Aristophanes, trong khoảng một tuần – và giúp biên tập tạp chí của trường, vừa in vừa làm bản thảo. Những tạp chí này khôi hài một cách đáng thương và tôi gặp ít rắc rối với nó hơn nhiều so với thứ báo chí rẻ tiền nhất hiện nay. Nhưng sau tất cả những điều này, trong khoảng mười lăm năm ấy, tôi đã thực hành một bài tập văn chương rất khác biệt: đây là câu truyện tiếp diễn về chính bản thân tôi, một dạng nhật ký chỉ tồn tại trong tâm trí mà thôi. Tôi tin rằng đây là thói quen phổ biến của trẻ em và các thanh thiếu niên. Bởi vì từ khi còn rất nhỏ tôi đã từng tưởng tượng rằng tôi là, nói thế nào nhỉ, Robinhood, và tự hình dung mình là người hùng trong các cuộc phiêu lưu li kỳ, nhưng chẳng mấy chốc “câu truyện” của tôi đã không còn là một dạng ái kỷ thô thiển và ngày càng trở thành một dạng mô tả giản đơn những gì tôi làm và những gì tôi thấy. Trong phút chốc những điều này chạy qua đầu tôi: “Anh đẩy cửa và bước vào phòng. Một tia nắng mặt trời vàng vọt, chiếu qua tấm rèm sa mỏng, xiên vào bàn, nơi những hộp diêm, hé nửa, nằm cạnh lọ mực. Với tay phải trong túi anh bước qua cửa sổ. Dưới con phố con mèo đầu rùa đang đuổi theo một chiếc lá héo tàn.” Vân vân và vân vân. Thói quen viết này còn kéo dài cho tới khi tôi khoảng hăm lăm tuổi, ngay trong những năm tôi không có chút văn chương nào. Mặc dù tôi đã phải kiếm tìm, và kiếm tìm những ngôn từ đúng đắn, tôi dường như vẫn nỗ lực miêu tả những điều trái với ý muốn của tôi, theo đúng những gì bên ngoài ép buộc. “Câu truyện” phải, tôi cho rằng, phản ánh phong cách của những nhà văn khác nhau mà tôi đã ngưỡng mộ ở mỗi độ tuổi khác nhau, nhưng cho tới giờ tôi nhớ là chúng đều có cùng chất lượng miêu tả chi tiết giống nhau.

Khi tôi khoảng mười sáu tuổi tôi đột nhiên khám phá ra thú vui đơn thuần là ngôn từ, ví dụ như âm điệu hay phối từ. Những dòng này từ “Thiên đường lạc lối” (Paradise Lost):

“Thế là chàng với khổ cực và cần lao
Được đổi thành: khổ cực và cần lao chính chàng”

giờ đây chẳng có vẻ gì là tuyệt vời với tôi, lại đã từng khiến tôi ớn lạnh xương sống, và hứng khởi đánh vần “hee” thay cho “he”. Đối với nhu cầu miêu tả mọi thứ, tôi đã biết toàn bộ rồi. Do đó, rõ ràng rằng loại sách ấy tôi có thể viết trong tầm tay vào thời điểm đó. Tôi muốn viết những cuốn tiểu thuyết thực sự vĩ đại với những cái kết không tốt đẹp, tràn ngập các miêu tả chi tiết và những hình ảnh ví von, và cũng tràn ngập những đoạn văn thẫm đỏ mà trong đó ngôn từ được sử dụng tạo ra nhịp điệu riêng của mình. Và trên thực tế là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, “Những ngày Miến Điện”, tôi đã viết khi tôi ba mươi tuổi, nhưng đã được nhen nhóm ý tưởng sớm hơn nhiều, khá là tiêu biểu cho thể loại này.

Tôi đưa ra tất cả những thông tin cơ bản này bởi vì tôi không nghĩ rằng người ta có thể đánh giá động cơ của một nhà văn mà không biết gì về thời kỳ phát triển ban đầu của nhà văn ấy. Đối tượng của nhà văn sẽ được xác định bởi thời đại, ít nhất điều này đúng ở thời loạn lạc và nổi dậy như thời của chúng ta – nhưng trước khi nhà văn ấy bắt đầu viết thì sẽ có sẵn một thái độ cảm xúc bao trùm khiến không thể thoát ra. Không nghi ngờ gì nữa, chính sự chuyên nghiệp là để thuần hóa tính khí của nhà văn và tránh mắc ket trong tình trạng thiếu trưởng thành, hay trong những tâm trạng đồi trụy: nhưng nếu nhà văn thoát khỏi những ảnh hưởng ban đầu của chính mình thì đồng thời cũng tự giết chết những thôi thúc viết lách của mình. Bỏ qua nhu cầu kiếm sống, tôi nghĩ rằng có bốn động lực lớn cho viết lách ở mọi cấp độ văn chương. Chúng tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau với mỗi nhà văn, và trong mỗi nhà văn tỉ lệ sẽ thay đổi theo từng thời điểm, theo bầu không khí mà nhà văn sống trong đó. Chúng bao gồm:

(1) Bản ngã siêu tuyệt. Mong muốn có được vẻ thông tuệ, được nói đến, được nhớ tới sau khi chết, để lấy lại tự tôn từ những người đã hắt hủi bạn khi bạn còn tơ ấu, vân vân và vân vân. Các nhà văn có cùng đặc tính này với nhà khoa học, nghệ sĩ, chính trị gia, luật sư, quân nhân, các doanh nhân thành đạt – tóm lại là toàn bộ những cái mẽ đỉnh cao của nhân loại. Đám đông vĩ đại của loài người không ích kỷ hoàn toàn. Sau độ tuổi ba mươi, họ hầu như tắt lịm tham vọng cá nhân – nhiều trường hợp, thay vì đó, họ gần như từ bỏ ý thức về cá nhân – và sống chủ yếu vì người khác, hoặc đơn giản là bị vùi dập tàn tệ. Nhưng một số ít những người tài năng, có ý chí, quyết tâm đeo đuổi đến cùng, và các nhà văn đều nằm trong lớp này. Tôi phải nói là các nhà văn nghiêm túc, hão huyền và thích tự coi mình là trung tâm hơn các nhà báo, mặc dù ít quan tâm tới tiền bạc hơn.

(2) Đam mê thẩm mỹ. Nhận thức về cái đẹp ở thế giới bên ngoài, hoặc, mặt khác, là ngôn từ và cấu trúc chuẩn mực của họ. Sung sướng được tác động hết âm thanh này tới âm thanh khác, trong sự chặt chẽ của lời văn đẹp đẽ hay những nhịp điệu của các cốt truyện hay ho. Ham muốn được chia sẻ một trải nghiệm mà người ta cảm thấy đáng giá và không thể bỏ lỡ. Động lực cái đẹp khá yếu ớt đối với đa số nhà văn, nhưng ngay cả với một người viết hay tác giả của sách giáo khoa đều sẽ có những từ và cụm từ yêu thích vì lý do ngớ ngẩn nào đó, hoặc đơn giản là thấy ấn tượng vì phông chứ hoặc độ rộng của lề, vân vân. Từ cấp độ của một hướng dẫn xe lửa trở lên, chẳng cuốn sách nào thoát khỏi những tính toán thẩm mỹ.

(3) Xúc cảm lịch sử. Mong muốn được thấy mọi thứ đúng như chúng là, tìm kiếm những thực tại đích thực và lưu lại cho hậu thế.

(4) Mục đích chính trị – từ “chính trị” được sử dụng theo nghĩa rộng nhất có thể. Mong muốn thúc đẩy thế giới theo hướng nào đó, để thay đổi ý tưởng của người khác về một loại xã hội nào đó mà họ nên phấn đấu theo. Một lần nữa phải nói là, không cuốn sách nào thực sự thoát khỏi thiên kiến chính trị. Ý kiến cho rằng nghệ thuật chẳng liên quan gì đến chính trị thì chính bản thân nó cũng là một thái độ chính trị.

 

(Còn nữa)

Hà Thủy Nguyên dịch

Nguyên tác: https://orwell.ru/library/essays/wiw/english/e_wiw

Home 2019 / page 7

Cởi mưa

Hè chưa cạn sen thu đà tới
Giọt lơi lơi
Xiêm áo nhuốm thơ rồi
Bạc màu rực rỡ
Mặc mưa
Sũng mùa xúc cảm

Ngơ ngơ như một vần thơ
Lạc điệu
Tôi vẫn manh áo cũ
Con phố cứ đổi màu

Muốt trắng một màu hoa không thực
Rụng đầy hồ đêm
Ccơn gió chẳng êm
Len mùi ảo não
Người đời trốn cả rồi sao
Nơi căn phòng không lỗ
Không cánh cửa mở
Cửa đâu rồi?

Tôi lang thang
Đêm đổi màu
Cài hoa không thực
Mái tóc vẩn hương

Tôi cởi xiêm y thơ
Ngôn từ rơi rụng cả
Vãi vương như lá
Rụng
Sau mưa

Có lẽ
Cơn mưa này
Lạc lối

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 7

Bắc phong hành – Lý Bạch

Hôm qua mình dịch Yên ca hành bài Thu phong của Tào Phi, rồi chợt nhớ ra bài Bắc phong hành của Lý Bạch, cũng là thể tài chinh phụ. Bài này có mấy bản dịch, nhưng các bản dịch đều biến bài hành này thành nhịp điệu thơ thất ngôn, làm sai đi tính hiện thực khắc nghiệt của bài thơ. Vẻ đẹp của bài thơ không phải ở câu thơ chau chuốt bóng bẩy theo lối Đường thi phổ biến, mà là nỗi đau dữ dội như gió tuyết. Mình thử dịch lại, cố giữ nhịp của điệu hành.

Chúc long thê hàn môn,
Quang diệu do đán khai.
Nhật nguyệt chiếu chi hà bất cập thử,
Duy hữu bắc phong hào nộ thiên thượng lai.
Yên sơn tuyết hoa đại như tịch,
Phiến phiến xuy lạc Hiên Viên đài.
U Châu tư phụ thập nhị nguyệt,
Đình ca bãi tiếu song nga tồi.
Ỷ môn vọng hành nhân,
Niệm quân Trường Thành khổ hàn lương khả ai.
Biệt thời đề kiếm cứu biên khứ,
Di thử hổ văn kim bính cách xoa.
Trung hữu nhất song bạch vũ tiễn,
Tri thù kết võng sinh trần ai.
Tiễn không tại,
Nhân kim chiến tử bất phục hồi.
Bất nhẫn kiến thử vật,
Phần chi dĩ thành khôi.
Hoàng Hà phủng thổ thượng khả tái,
Bắc phong vũ tuyết hận nan tài.

*Bản dịch

Đuốc rồng soi hàn môn *
Ánh trời bừng ngày mới
Nhật nguyệt sao chiếu rọi chốn đây
Chỉ gió bắc trên cao thét gào lui tới
Núi Yên tuyết hoa hồ dệt chiếu
Phấp phới rụng trắng Hiên Viên đài
U Châu cô phụ năm ròng rã
Ngưng tiếng hát cười, nét mày chau
Tựa cửa ngóng chinh phu
Nhớ chàng lưu lạc Trường Thành ôi giá lạnh
Ngày ly biệt chàng vung gươm ải xa
Nay còn đây túi tên đã rỗng
Đâu còn mũi tên lông trắng
Chỉ thấy nhện giăng kết bụi trần
Tên còn đâu
Người nay vùi xác sa trường
Ngắm vật lòng chẳng cam
Đốt thành tro tàn cả
Hoàng Hà có lúc dòng đổi thay
Gió bắc hận tháng năm sao ngừng đây

(*) Trong câu này, tác giả dùng điển tích “chúc long” để ám chỉ ánh sáng của phương bắc xa xôi gió tuyết. Người Trung Quốc xưa quan niệm ở phương bắc lạnh giá không có ánh mặt trời soi sáng mà chỉ có loài chúc long thắp sáng.

Tranh minh họa: Y Xuy Ngũ Nguyệt

Thú thực là vẫn thích không khí trong Yên ca hành của Tào Phi hơn. Dịch bài thơ này là vì có một đoạn viết trong “Thiên địa phong trần” tập 2 có nhắc tới! 😇

Home 2019 / page 7

Vạn vật lụi tàn – Lord Alfred Tennyson

Sông xanh hòa điệu thủy lưu

Dưới mắt tôi
Gió nam ùa lồng lộng

Cao trên trời
Lớp lớp mây bạc nổi trôi
Mỗi trái tim đập nhịp hoan ca sáng tháng Năm rực rỡ

Ngập tràn lạc thú:
Thế rồi vạn vật cũng lụi tàn
Suối sông ngừng chảy
Gió ngừng thổi
Mây ngừng trôi
Tim ngừng đập
Vì vạn vật tới lúc tàn lụi
Vạn vật lụi tàn
Mùa xuân nào quay lại
Ôi, hư vô!
Cái chết đợi rồi
Kìa! Bạn bè tôi xa xôi
Rượu và lạc thú
Chúng ta được gọi tới rồi lại ra đi
Nằm sâu, rất sâu
Chìm trong tịch mịch nơi phải vậy
Chỉ hân hoan đọng lại
Tiếng chim ngân vang
Không thể nào nghe
Cũng như gió thổi đồi cao.
Ôi chao bất hạnh!
Nghe này! Cái chết gọi mời
Ngay lúc này tôi đang nói
Quai hàm rụng rời
Má hồng phai nhạt
Tráng kiện nhược dần
Băng đá trộn cùng máu nóng
Mắt thì đông cứng
Bao lần chuông đã điểm tang
Này linh hồn lạc thú, biệt ly thôi.
Đất già nua
Chỉ một lần sinh
Ai cũng biết
Xa xưa.
Và đất già nua sẽ diệt
Hãy để gió ấm nồng băng qua
Và sóng xanh vỗ bờ
Đêm đêm lại ngày ngày
Ai nào thấy
Nơi vĩnh cửu.
Vạn vật đã sinh
Nào quay lại
Vạn vật lụi tàn cả thôi.

Nguyên tác:

ALL THINGS MUST DIE

Clearly the blue river chimes in its flowing

Under my eye;
Warmly and broadly the south winds are blowing

Over the sky.
One after another the white clouds are fleeting;
Every heart this May morning in joyance is beating

Full merrily;
Yet all things must die.
The stream will cease to flow;
The wind will cease to blow;
The clouds will cease to fleet;
The heart will cease to beat;
For all things must die.
All things must die.
Spring will come never more.
O, vanity!
Death waits at the door.
See! our friends are all forsaking
The wine and the merrymaking.
We are call’d–we must go.
Laid low, very low,
In the dark we must lie.
The merry glees are still;
The voice of the bird
Shall no more be heard,
Nor the wind on the hill.
O, misery!
Hark! death is calling
While I speak to ye,
The jaw is falling,
The red cheek paling,
The strong limbs failing;
Ice with the warm blood mixing;
The eyeballs fixing.
Nine times goes the passing bell:
Ye merry souls, farewell.
The old earth
Had a birth,
As all men know,
Long ago.
And the old earth must die.
So let the warm winds range,
And the blue wave beat the shore;
For even and morn
Ye will never see
Thro’ eternity.
All things were born.
Ye will come never more,
For all things must die.

 

Home 2019 / page 7

Yên ca hành kỳ 1: Thu Phong – Tào Phi

Người đời khen thơ Tào Thực, nhưng với mình tài thơ của Thực không thể so với Phi: So về tình không lai láng bằng, so về hình ảnh thơ không đẹp đẽ bằng, so về thủ pháp để lại cho đời sau cũng còn thua xa. Có lẽ người ta yêu thích thơ Tào Thực chỉ vì ông này thường ngày thích rượu chè với các văn nhân, chứ không đau đáu đại nghiệp như Tào Phi. “Tam quốc diễn nghĩa” chê bai Tào Phi và ghen tài đố kị với Tào Thực, nhưng xét về tài thì Phi hơn hẳn Thực cả về văn chương lẫn chính trị.

Yên Ca Hành có hai bài, cả hai đều là mẫu mực của thể tài chinh phụ – một trong các thể tài quan trọng nhất của cổ thi Trung Hoa. Đáng nói ở chỗ, tại sao một chính trị gia trong thời loạn lại khát khao hòa bình đến mức mượn lời của người cô phụ để nói lên khát vọng hòa bình của mình. Lúc dịch không khỏi nhớ đến “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn.

> Đọc thêm:

Yên ca hành kỳ 2: Biệt nhật – Tào Phi – Hà Thuỷ Nguyên (hathuynguyen.com)

Bản dịch mới Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Hà Thuỷ Nguyên (hathuynguyen.com)

Đây là bài Yên Ca Hành đầu tiên với tựa đề “Thu phong”:

Thu phong tiêu sắt thiên khí lương,
Thảo mộc dao lạc lộ vi sương.
Quần yến từ quy nhạn Nam tường,
Niệm quân khách du tứ đoạn trường.
Khiểm khiểm tư quy luyến cố hương,
Quân hà yêm lưu ký tha phương.
Tiện thiếp cung cung thủ không phòng,
Ưu lai tư quân bất cảm vong.
Bất giác lệ hạ chiêm y thường,
Viện cầm minh huyền phát “Thanh thương”.
Đoản ca vi ngâm bất năng trường,
Minh nguyệt hạo hạo chiếu ngã sàng.
Tinh Hán tây lưu dạ vi ương,
Khiên Ngưu, Chức Nữ dao tương vọng,
Nhĩ độc hà cô hạn hà lương.

Dịch thơ:

Xào xạc hơi thu khí bạc màu
Cỏ cây rơi rụng đọng sương thâu
Én kêu trời nam nhạn chao mình
Nhớ chàng rong ruổi lòng đứt đoạn
Dằng dặc lòng chàng nhớ quê xa
Cớ sao trôi nổi kiếp không nhà.
Thiếp phận đơn côi căn phòng trống
Buồn dâng nhung nhớ chẳng nguôi lòng
Nào biết lệ rơi đầm xiêm áo
Mượn khúc “Thanh thương” nguyện tỏ lòng
Đoản khúc sao thỏa lòng nhung nhớ
Vằng vặc đầu giường trăng vãi vương
Dòng Hán trời tây đêm còn tuôn
Chàng Ngưu nàng Chức còn xa ngái
Duy chàng thơ thẩn nhịp cầu chi?

Dịch nghĩa:

Gió thu hiu hiu lạnh khí trời bạc màu
Cây cỏ tiêu điều móc giăng thành màn sương
Chim én gọi bầy nhạn chao liệng về Nam
Nhớ chàng phương xa mà lòng thiếp đớn đau
Lòng chàng nhớ quê dằng dặc
Thế mà vẫn phải tha phương
Tiện thiếp một mình nơi phòng trống
Nỗi buồn nhớ chàng không thể nguôi ngoai
Nào biết lệ đã rơi ướt đầm xiêm áo
Chỉ biết mượn khúc Thanh Thương để tỏ nỗi lòng
Nhưng khúc nhạc ngắn quá không thể giãi bầy
Đầu giường thiếp trăng sáng vằng vặc
Dòng sông Hán trên trời còn đổ về tây thì đêm còn dài (*)
Sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ còn chưa gặp nhau
Thế mà chàng vẫn đứng trên cầu một mình ngẫm ngợi điều gì?

(*) Trong câu này, khi Tào Phi nhắc đến “Tinh Hán” ý muốn nhắc đến Thiên Hà ám chỉ bầu trời đêm. Tuy nhiên, từ “Hán”, vừa có ý chỉ dòng sông Hán, vừa chỉ nhà Hán, lại vừa chỉ Thiên Hà, nên mình nghĩ rằng ở đây tác giả chơi chữ, vừa muốn nói đến nhà Hán, vừa muốn ám chỉ bầu trời đêm.

Home 2019 / page 7

Lời của lặng im

Chạm vào đám đông

Lá không rụng

Trăng mông lung

Nụ cười quên tắt

 

Chạm đơn độc

Độc xuôi nước chia hai

Trăng vụn rồi

Lá tơi bời

Không lời thổn thức

 

Lắc rắc mưa không chạm áo

Chạm một ngôi sao

Đêm tà hắt bóng

Hồn ma cười nhạo

Ta im lìm

 

Tiếng đời xôn xao dội

Một cái tôi, lại một cái tôi, và tôi, và tôi, và tôi…

Chỉ tôi thôi

Những mảnh vỡ cuộc người

 

Nghe gì không đêm

Trái tim nay đã im lìm

Mây chuyển vần

Này là khắc kiếm tìm

Vô ảnh

 

Có chuyển dời bất động

Đang đọng

Nơi mây

Ta say không men rượu

Phút này

Hay!

 

Hà Thủy Nguyên

Home 2019 / page 7

SONNET 070: VẺ ĐẸP ĐẮM SAY – WILLIAM SHAKESPEARE

 

Điều tiếng ấy nào phải đâu tội lỗi
Thị phi kia nào đâu lẽ công bằng
Cạm bẫy nhan sắc đều nghi hoặc
Cánh quạ kia chao liệng đắm trời xanh

Nàng tuyệt đẹp, và những lời phỉ báng
Càng tôn thêm vẻ tuyệt diệu muôn đời
Quằn quại nỗi đau, tình yêu say đắm
Kìa nàng hiển hiện tinh khôi.

Nàng đi qua những vất vả ngày xanh
Nào những tấn công, nào là chiến thắng
Những lời tụng ca đều dần vô nghĩa
Còn điều tiếng kia, nàng thây kệ lan truyền

Nếu nghi hoặc của người đời không vướng bận
Cả thế gian đều quy thuận dưới chân nàng

 

*Bản gốc:

That thou art blamed shall not be thy defect,
For slander’s mark was ever yet the fair;
The ornament of beauty is suspect,
A crow that flies in heaven’s sweetest air.

So thou be good, slander doth but approve
Thy worth the greater being wooed of time;
For canker vice the sweetest buds doth love,
And thou present’st a pure unstained prime.

Thou hast passed by the ambush of young days
Either not assailed, or victor being charged;
Yet this thy praise cannot be so thy praise,
To tie up envy, evermore enlarged,

If some suspect of ill masked not thy show,
Then thou alone kingdoms of hearts shouldst owe.

 

Hà  Thủy Nguyên dịch

Home 2019 / page 7

Hoa hạ túy – Lý Thương Ẩn

Tầm phương bất giác tuý lưu hà,
Ỷ thụ trầm miên nhật dĩ tà.
Khách tán tửu tỉnh thâm dạ hậu,
Cánh trì hồng chúc thưởng tàn hoa.

*Bản dịch của mình:

Say ánh chiều tà bãi cỏ thơm
Tựa cây chìm bóng giấc hoàng hôn
Nửa đêm sực tỉnh người đâu tá
Đuốc rọi tàn hoa bước cô đơn.”
———
Đang viết Thiên địa phong trần Tập 2, chợt nổi hứng dịch bài thơ này!

 

Hà Thủy Nguyên dịch